Một số vướng mắc trong quá trình thi hành Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình
Để đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình ngày 31/12/2021 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2021/NĐ-CP để xử lý các hành vi vi phạm, quá trình thi hành Nghị định đã góp phần hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, tạo ra công cụ pháp lý cho các cơ quan, người có thẩm quyền thi hành tốt công vụ. Tuy nhiên, một số quy định của nghị định thiếu cụ thể, rõ ràng, trùng lặp, mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác dẫn đến quá trình áp dụng người thi hành công vụ lúng túng gặp không ít khó khăn, cụ thể:
Thứ nhất, cùng về hành vi khai báo tạm trú cho người nước ngoài nhưng tại điểm đ khoản 4 Điều 9 quy định phạt tiền từ từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với hành vi “Không khai báo tạm trú cho người nước ngoài theo quy định của pháp luật;” và tại điểm i khoản 3 Điều 18 quy định phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng “Cơ sở lưu trú cho người nước ngoài tạm trú qua đêm nhưng không khai báo tạm trú hoặc không cập nhật thông tin khai báo tạm trú theo quy định;”. Như vậy, cùng một hành vi vi phạm nhưng tại Nghị định số 144/2021/NĐ-CP đã quy định ở hai điều khoản khác nhau dẫn đến quá trình áp dụng người thi hành công rất lúng túng trong việc lựa chọn quy định để áp dụng. Với quy định này, thông thường người thi hành công vụ sẽ lựa chọn áp dụng trên nguyên tắc có lợi cho đối tượng vi phạm bởi mục đích cần đạt được đó là đã xử lý đối với hành vi vi phạm.
Thứ hai, tại Điều 6 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về thủ tục xử phạt hành chính đối với một số hành vi được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự phải chuyển hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng "Khi phát hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm d khoản 1, điểm c khoản 2, điểm b khoản 3, các điểm b và c khoản 4, các điểm a và d khoản 5 Điều 7; các điểm b và c khoản 4 Điều 9; điểm a khoản 3, các điểm a và b khoản 4 Điều 10; điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 11; điểm c khoản 3, các điểm b, đ và e khoản 5 Điều 12; điểm e khoản 3, các điểm a và b khoản 4 Điều 13; các điểm a, b, c và đ khoản 1, các điểm c, d và e khoản 2 Điều 15; điểm a khoản 3 Điều 16; điểm a khoản 4, điểm c khoản 6 và điểm a khoản 7 Điều 18; điểm đ khoản 2, khoản 4 Điều 19; khoản 3 Điều 21; khoản 2, khoản 3, các điểm b, c, d, đ và e khoản 5 Điều 23; điểm c khoản 4 Điều 26; khoản 2, các điểm b và d khoản 4, các điểm a và d khoản 5 Điều 28; khoản 4 Điều 32; điểm c khoản 5 Điều 34; điểm a khoản 2 Điều 50; điểm a khoản 4 Điều 51; khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 53 Nghị định này, thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính" là chưa phù hợp với thực tiễn. Theo quy định này thì các hành vi được liệt kê tại Điều 6 buộc phải chuyển cho cơ quan tiến hành tố tụng để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, một số hành vi như Cố ý gây thương tích tại điểm a khoản 5 Điều 7 của Nghị định, trong một số trường hợp như dùng tay, chân đánh lên người khác chỉ gây chầy xước hay bầm dập, nếu xét sơ bộ ban đầu hoặc thông qua kết quả giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể theo quy trình hành chính có thể khẳng định được không đủ yếu tố cấu thành tội phạm và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính hay trong một số trường hợp, hành vi vi phạm quả tang, đã xác định được tính chất, mức độ vi phạm, xác định được giá trị tang vật thu giữ có liên quan không đủ yếu tố cấu thành tội phạm (ví dụ: Hành vi Đánh bạc...vv). Với các thông tin xác định sơ bộ ban đầu người thi hành công vụ đã có đủ cơ sở để phân loại xử phạt vi phạm hành chính đồng thời đảm bảo không bỏ lọt tội phạm. Do đó việc quy định phải chuyển cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự là không cần thiết, tạo thêm các thủ tục và kéo dài thời gian xử lý của vụ việc.
Ngoài ra một số hành vi vi phạm hành chính khi đáp ứng các điều kiện thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, giữa hành vi hành vi hành chính và tội phạm được quy định tại Bộ Luật hình sự chưa có sự thống nhất về tên gọi như hành vi “Mang trái phép vũ khí, công cụ hỗ trợ và pháo vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc mang vào nơi cấm, khu vực cấm, khu vực bảo vệ và mục tiêu bảo vệ.” quy định tại điểm d khoản 4 Điều 11 của Nghị định nhưng tại Điều 306 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ thì quy định về tội danh “ Vận chuyển, mua bán qua biên giới;” Như vậy, nếu bị xử phạt về vi phạm hành chính về hành vi mang trái phép vũ khí, công cụ hỗ trợ và pháo vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiếp tục vi phạm thì có đủ điều kiện để khởi tố về hành vi vận chuyển trái phép súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ qua biên giới hay không?
Với những vướng mắc nêu trên, để tháo gỡ cho các địa phương và đảm bảo thống nhất trong việc áp dụng pháp luật thì cần sớm sửa Nghị định số 144/2021/NĐ-CP tránh sự chồng chéo, trùng lặp và thiếu tính thống nhất với hệ thống pháp luật khác./.
Cẩm Thạch