Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật trong trường trung học thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp

 

 

Công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi những con người mới có tri thức khoa học, có hiểu biết về pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật. Thực tế hiện nay, tình hình vi phạm pháp luật trong xã hội có chiều hướng ngày càng tăng, nhất là lứa tuổi thanh, thiếu niên trong các nhà trường. Một trong những nguyên nhân cơ bản là tình trạng “mù” pháp luật hoặc hiểu biết pháp luật không đầy đủ; từ đó, dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật. Mặt khác, việc mở cửa nền kinh tế cũng có những ảnh hưởng, tác động đến truyền thống, đạo đức xã hội. Một số nét đẹp trong đạo đức truyền thống bị phá vỡ, đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp, ý thức pháp luật của một bộ phận người dân chưa cao. Do  đó, cùng với việc trang bị các kiến thức văn hoá, khoa học - kỹ thuật, việc PBGDPL trong nhà trường nhằm trang bị những tri thức pháp luật cơ bản, giáo dục ý thức tự giác tuân thủ pháp luật cho học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước là việc làm cực kỳ cần thiết và cấp bách.

 

Giáo dục pháp luật trong nhà trường trung học (sau đây được hiểu gồm trung  học phổ thông và trung học cơ sở) thực hiện thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một hoạt động giáo dục được thực hiện có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm góp phần phát triển nhân cách, năng khiếu cho học sinh theo mục tiêuđào tạo. Đây là hoạt động do nhà trường quản lý, chỉ đạo và tổ chức, được tiến hành xen kẽ hoặc tiếp nối hoạt động dạy học trong nhà trường hoặc trong đời sống xã hội. Hoạt động này diễn ra trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè, quá  trình nàyđược thực hiện mọi nơi, mọi lúc. ác hoạt động giáo dục pháp luật trong nhà trường trung học thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là các hoạt động nằm ngoài chương trình học chính khóa của các bộ môn như giáo dục công dân, địa lý... là một trong những sân chơi để học sinh tự nguyện tham gia theo nhu cầu, khả năng của bản thân. Hoạt động giáo dục pháp luật bổ sung các kỹ năng và kinh nghiệm cho học sinh trong tiếp cận kiến thức pháp luật một cách tự nguyện và dễ dàng nhất, góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành nhân cách, rèn luyện hành vi ứng xử cho thế hệ trẻ ngay từ trên ghế nhà trường, giảm thiểu những hành vi lệch chuẩn và tạo nếp sống, hành động theo Hiến pháp và pháp luật.

 

1. Hình thức phổ biến pháp luật trực tiếp (tuyên truyền miệng)

 

Tuyên truyền miệng về pháp luật là một hình thức tuyên truyền mà báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật trực tiếp phổ biến, tư vấn hoặc hướng dẫn cho các em học sinh về các quy định của pháp luật trong các văn bản luật hoặc các văn bản liên quan trong quá trình triển khai thi hành pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe, hướng cho người nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật.

 

1.1. Ưu điểm của tuyên truyền miệng:

 

- Đảm bảo tính linh hoạt.

 

- Có thể tiến hành ở nhiều nơi, trong nhiều điều kiện, hoàn cảnh.

 

- Số lượng người nghe đa dạng, nhiều thànhphần.

 

- Có thể tương tác, trao đổi hai chiều giữa báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật.

 

- Tổ chức thông qua hội nghị, hội thảo, tập huấn, sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật…

 

1.2. Chuẩnbị:

 

- Thời gian: 45 - 60 phút.

 

- Địa điểm: Hội trường, sân trường, nhà đa năng hoặc không gian rộng trong buổi dã ngoại.

 

- Cơ sở vật chất: Có máy móc, thiết bị (loa, đài...) đủ công suất cho số lượng học sinh dự buổi sinh hoạt; Có bộ phận hỗ trợ chạy micro; tranh ảnh, băng zôn, khẩu hiệu liên quan đến nội dung tuyên truyền; Quà tặng cho học sinh…

 

- Chọn nội dung tuyên truyền phù hợp với thời gian, không gian và đối tượng học sinh.

 

- Chọn báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật: Nên chọn báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật có giọng nói truyền cảm, dễ nghe, phong thái chững chạc. Người tuyên truyền có thể là giáo viên trong nhà trường  dạy bộ môn giáo dục công dân, Bí thư Đoàn trường hoặc mời người có kỹ năng từ các cơ sở giáo dục khác có uy tín, công chức làm công tác PBGDPL của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp.

 

1.3. Kỹ năng tuyên truyền miệng về pháp luật

 

Bên cạnh kỹ năng PBGDPL cho thanh, thiếu niên vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới, biển đảo (tại mục 1 Phần II của Chuyên đề 4), tuyên truyền miệng về pháp luật cho học sinh trường trung học cần chú trọng một số kỹ năng sau đây:

 

Tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng: Trong khi tuyên truyền, báo cáo viên pháp luật cần tiếp cận học sinh, gần gũi, giọng nói phải rõ ràng, mạch lạc nhưng truyền cảm, cần tạo điểm nhấn, tránh lối nói đều đều. Động tác, cử chỉ cần phải phù hợp với nội dung và giọng nói. Vẻ mặt của người nói cần thay đổi theo diễn biến nội dung. Khi nói, cần  chú ý nhìn vào một nhóm người ngồi dưới, thỉnh thoảng báo cáo viên cần thay đổi vị trí nhìn để tạo sự chú ý của cử tọa. Báo cáo viên pháp luật cần đưa ra số liệu, sự kiện để minh hoạ, đặt câu hỏi để tăng thêm sự chú ý của học sinh và có thể có phần thưởng cho học sinh trả lời đúng.

 

Cần lưu ý là phải nêu được những điểm mới, thời sự để học sinh chú ý; khi tuyên truyền, không được sao chép, đọc nguyên văn văn bản để tránh sự nhàm chán. Khi giảng cần phân tích, giải thích và nêu ý nghĩa của văn bản pháp luật đó. Viết, đọc một đoạn nào đó trong văn bản chỉ có tính chất dẫn chứng, minh họa những gì mà người nói đã phân tích, dẫn chứng ở trước.

 

Bảo đảm các nguyên tắc sư phạm: Báo cáo viên cần tôn trọng các nguyên tắc sư phạm. Từ bố cục bài nói, diễn đạt các đoạn văn, liên kết giữa các đoạn văn đến cách nói đều phải rõ ràng, mạch lạc, lôgic.

 

Sử dụng phương pháp thuyết phục: Các dẫn chứng đưa ra gồm số liệu, sự kiện, hiện tượng, nhân chứng… phải chính xác, tiêu biểu, toàn diện và phù hợp với vấn đề.

 

2. Tin, bài phổ biến, giáo dục pháp luật trên truyền thanh giữa giờ; bảng thông tin di động; website của nhà trường

 

Tin, bài là một thể tài của tác phẩm báo chí phản ánh trung thực một sự kiện, vụ việc mới xảy ra ở một địa điểm, trong một thời điểm cụ thể, có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế, xã hội được dư luận quan tâm. Lợi thế lớn nhất của tin là tính nhanh nhạy, kịp thời. Đây là hình thức có tính phổ cập, thường xuyên, kịp thời và rộng khắp, rất có ưu thế trong PBGDPL.

 

Bài là một trong những thể loại báo chí có từ lâu đời và có vị trí rất quan trọng. Bài thường có dung lượng lớn hơn tin và phải đáp ứng yêu cầu cơ bản của tác phẩm báo chí là phản ánh hiện thực qua những sự kiện thời sự.

 

Yêu cầu cơ sở vật chất: Nhà trường có dàn âm thanh; bảng thông tin di động; website.

Yêu cầu chung đối với tin, bài phổ biến, giáo dục pháp luật

- Tính kịp thời.

Đảm bảo đúng pháp luật.

Tính chân thực, khách quan.

Phù hợp với đối tượng.

Tính định hướng đúng đắn của thông tin.

Ngắn gọn, súc tích, chính xác, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, dễ hiểu, cách thể hiện phong phú, hấp dẫn.

 

Các yêu cầu đặt ra đối với tin, bài viết về pháp luật cần được đặt trong mối quan hệ tổng thể, không thể coi nhẹ hay coi trọng bất cứ yêu cầu nào.

 

2.2. Một số kỹ năng cơ bản về viết tin, bài phổ biến, giáo dục phápluật

 

a)Chọn vấn đề, sự kiện để viết bài, đưa tin: Đó phải là những vấn đề, sự kiện xảy ra trong đời sống chính trị pháp lý có tính chất tiêu biểu, có ý nghĩa quan trọng trong từng phạm vi, từng thời điểm, đồng thời vấn đề đó phải mang tính thời sự. Ví dụ: Viết tin, bài giới thiệu Bộ luật Hình sự trong điều kiện Thành phố tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu Bộ luật Hình sự năm 2015”; viết tin, bài về tác hại của thuốc lá khi Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá được Quốc hội thông qua...

 

b)Lựa chọn cách thể hiện: Khi một vấn đề, sự kiện pháp lý được thể hiện dưới hình thức tin, bài phù hợp sẽ làm tăng tính hiệu quả của thông tin. Đối với những vấn đề cần thông tin nhanh nhạy, kịp thời, ngắn gọn thì lựa chọn thể loại tin. Đối với những vấn đề cần trình bày một cách chi tiết, phân tích, nhìn nhận, đánh giá vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau thì lựa chọn thể loại bài.

 

c)Xác định đối tượng thông tin: Thông thường tin, bài về đời sống pháp luật có đối tượng thông tin rộng rãi. Tuy nhiên, để tin, bài phát huy hiệu quả, cần xác định cụ thể đối tượng chủ yếu cần được thông tin. Đối với từng cấp học (trung học cơ sở, trung học phổ thông), giữa thành thị và nông thôn... trình độ nhận thức, sở thích của học sinh khác nhau, do đó khi chọn lọc thông tin, cần lựa chọn cách thể hiện, ngôn ngữ phù hợp. Học sinh thường thích ngôn ngữ dễ hiểu, dí dỏm và có nhạc nền (đối với truyền thanh) hoặc hình ảnh sinh động, màu sắc, trình bày đẹp, bắt mắt (đối với bảng thông tin di động và website).

 

d) Thu thập thông tin: Tin, bài PBGDPL không thể thiếu số liệu, sự kiện. Vì vậy phải thu thập đầy đủ số liệu, sự kiện bao quát được vấn đề định nêu. Tùy theo tính chất của vấn đề cần thông tin, phải thu thập được những sự kiện, số liệu chính mà thiếu nó thì tin, bài không thể bảo đảm chất lượng.

 

đ) Xử lý thông tin:

 

- Kiểm tra và nắm vững thông tin chính xác. Nếu còn nghi ngờ, phân vân về thông tin nào đó mà chưa có điều kiện kiểm tra, xác minh thì không được sử dụng. Việc kiểm tra thông tin được thực hiện bằng nhiều cách: thông qua tư liệu, thông qua nhân chứng…

 

- Lựa chọn thông tin: Là sàng lọc và loại bỏ những thông tin không cần thiết, những thông tin còn nghi ngờ về độ chính xác, chân thực, khách quan.

 

- Sắp xếp, so sánh, đối chiếu các thông tin khác để có được cái nhìn bao quát về vấn đề, sựkiện.

 

- Nhận dạng, phân biệt, tập trung sự chú ý vào các sự việc và nhân vật quan trọng trong tin, bài PBGDPL; đồng thời giải quyết từng điểm để làm cho tin, bài hấp dẫn, dễ hiểu.

 

e) Viết tin, bài: Tin, bài PBGDPL phải thể hiện ngắn gọn, súc tích, rõ ràng. Ngôn ngữ chủ yếu mang tính truyền tải thông tin, trong sáng, dễ hiểu, giản dị, chuẩn xác. Tin, bài PBGDPL cũng rất cần sự sáng tạo trong ngôn ngữ thể hiện, cần trích dẫn, minh họa cho phù hợp, tạo sự chân thực và sống động cho bài viết.

 

Lưu ý khi viết tin, không có những lời bình luận và không được hư cấu.

 

3. Tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật

 

Thi tìm hiểu pháp luật được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, do mục đích, yêu cầu, điều kiện, hoàn cảnh và khả năng cụ thể của từng trường quyết định. Các loại hình thi tìm hiểu pháp luật thư­ờng được áp dụng nhiều trên thực tế là: thi  các tiểu phẩm sân khấu hóa; trả lời câu hỏi qua thi trắc nghiệm về pháp luật; thi hùng biện, thuyết trình về một nội dung cho trước; thi viết dưới dạng câu hỏi tự luận; thi trên mạng; thi vẽ tranh...

 

Một cuộc thi cũng có thể sử dụng một, một số hoặc sử dụng tổng hợp các loại hình này.

 

3.1. Các công việc cần tiến hành khi tổ chức thi tìm hiểu pháp luật

 

Mỗi cuộc thi tìm hiểu pháp luật thư­ờng có ba giai đoạn với các công việc chính sau:

 

a) Chuẩn bị

 

- Hình thành chủ trương về cuộc thi: Các văn bản chỉ đạo của cấp trên đối với nhà trường, trong năm học hoặc chủ đề năm học, chủ đề tháng; đối t­ượng học sinh cần ưu tiên PBGDPL trong từng thời kỳ.

 

Các cuộc thi thường do Đoàn thanh niên tổ chức. Bí thư Đoàn trường cần lập Tờ trình xin ý kiến Hiệu trưởng và tổ chức thực hiện sau khi được Hiệu trưởng phê duyệt.

 

- Xây dựng kế hoạch tổ chức cuộc thi: Trong kế hoạch cần quy định rõ mục đích, yêu cầu, đối tượng, nội dung, hình thức thi; thời gian tổ chức cuộc thi; tiến độ thực hiện các công việc; Ban giám khảo, kinh phí cuộc thi, cơ cấu giải thưởng.

 

Một số gợi ý tham khảo trong xây dựng kế hoạch như sau:

 

- Mục đích: Cuộc thi có mục đích riêng, đặc thù. Mục đích chung của các cuộc thi tìm hiểu pháp luật hướng tới là nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh trong nhà trường.

 

- Yêu cầu chung: Đảm bảo tính phổ cập, thiết thực, dễ hiểu, hình thức thi sinh động, hấp dẫn, sáng tạo, không khí hào hứng, sôi nổi cuốn hút mọi người tham gia (đối với các cuộc thi trên sân khấu).

 

- Nội dung thi: Những quy định pháp luật, những kiến thức phổ thông về pháp luật, trong đó chú trọng về một số các quy định pháp luật liên quan tới chủ đề của cuộc thi; những kiến thức về xã hội, đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp... Nêu rõ cuộc thi gồm mấy phần thi.

 

- Hình thức thi: Kế hoạch nên quy định rõ một số vấn đề sau:

 

+ Tổ chức thi cá nhân hay tập thể;

 

+ Loại hình thi (sân khấu, viết, thi qua mạng, hùng biện, thi theo hình thức Rung chuông vàng, đấu trường 100, thi giữa các đội, lớp...);

 

+ Cuộc thi được tổ chức vòng sơ khảo và chung khảo như thế nào? Tại từng vòng, thí sinh phải thi những nội dung gì? Đối với thi viết, thi trên mạng có  thể thí sinh phải  trả lời các câu hỏi lý thuyết và tình huống; Tổ chức thi trên sân khấu, các thí sinh thực hiện 3 phần thi: lý thuyết, xử lý tình huống và năng khiếu.

 

b) Thành lập Ban tổ chức, Ban giám khảo cuộc thi

 

Quyết định thành lập Ban tổ chức cuộc thi do Hiệu trưởng ký, trong đó quy định rõ Trưởng, Phó Ban tổ chức (Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng), các thành viên (đại diện Công đoàn, Đoàn thanh niên, giáo viên dạy môn Giáo dục công dân).

 

- Ban tổ chức cuộc thi có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

 

+ Ban hành Kế hoạch tổ chức cuộc thi;

 

+ Ban hành Quy chế cuộc thi; Thể lệ cuộc thi;

 

+ Chủ trì, phối hợp với các thành viên có liên quan để triển khai tổ chức cuộc thi.

 

-Thành lập Ban giám khảo: Ban tổ chức thành lập Ban giám khảo. Tùy từng hình thức tổ chức cuộc thi mà có số lượng và thành phần Ban giám khảo khác nhau. Ví dụ: thi tiểu phẩm thì chỉ nên có 03 giám khảo, làm việc xuyên suốt cuộc thi; nhưng với thi viết thì cần số lượng Ban giám khảo nhiều hơn, chấm theo cặp ngẫu nhiên để đảm bảo tính công bằng của cuộc thi.

 

Một số điểm cần lưu ý:

 

- Về thời gian cuộc thi: Thời gian thi nên tương xứng, phù hợp với quy mô tổ chức và nội dung thi để học sinh có thời gian chuẩn bị tốt cho cuộc thi, không làm ảnh hưởng đến thời gian học tập chính khóa của học sinh.

 

Thời điểm tổ chức cuộc thi cũng có ý nghĩa quan trọng, một mặt làm tăng thêm ý nghĩa cuộc thi, mặt khác, góp phần tăng cường nhiệm vụ chính trị, quản lý trong địa bàn. Các mốc thời gian của cuộc thi thường dựa vào các ngày lễ lớn, hoặc theo chủ đề tháng.

 

- Về giải thưởng: Tuỳ theo tính chất cuộc thi, đối tượng dự thi và khả năng kinh phí mà Ban tổ chức quyết định về cơ cấu giải và giá trị giải (giải đặc biệt, nhất, nhì, ba, giải khuyến khích cho tập thể, cá nhân và các giải phụ). Giải thưởng có thể được trao bằng tiền, hiện vật để giải thưởng không chỉ có ý nghĩa khuyến khích về vật chất mà quan trọng là động viên tinh thần người tham dự cuộc thi.

 

c) Xây dựng thể lệ cuộc thi, quy chế chấm thi

 

- Thể lệ cuộc thi tìm hiểu pháp luật bao gồm: đối t­ượng dự thi; các yêu cầu đối với bài dự thi, thời gian và nơi nhận bài thi (nếu là thi viết) hoặc các quy định về nội dung, cách thức thi (nếu là thi trả lời trực tiếp); thời gian tổ chức cuộc thi; giải thưởng; đơn vị tổ chức cuộc thi (Ban tổ chức) và những nội dung cần thiết khác.

 

- Quy chế chấm thi quy định rõ cách giải quyết đối với trường hợp các thí sinh có tổng số điểm bằng nhau. Ví dụ, đối với cuộc thi trên sân khấu, trường hợp thí sinh có tổng số điểm bằng nhau thì thí sinh nào có số điểm phần thi xử lý tình huống cao hơn sẽ được chọn vào dự thi vòng chung khảo. Trường hợp thí sinh có tổng số điểm bằng nhau, trong đó điểm phần thi xử lý tình huống cũng bằng nhau thì sẽ bốc thăm và trả lời câu hỏi phụ về xử lý tình huống, thí sinh nào có số điểm trả lời câu hỏi phụ cao hơn sẽ vào dự thi vòng chung khảo.

 

- Trách nhiệm của Ban giám khảo:

 

+ Xây dựng bộ câu hỏi và đáp án;

 

+ Xây dựng thang điểm chấm thi;

 

+ Tổ chức chấm thi theo Quy chế chấm thi và đề xuất Ban tổ chức việc xếp giải.

 

- Nguyên tắc chấm thi:

 

+ Đối với thi viết: Thành viên Ban giám khảo chấm điểm cho mỗi thí sinh vào một phiếu điểm, ký và ghi rõ họ tên, sau đó chuyển phiếu điểm cho Tổ thư ký tổng hợp.

 

Căn cứ Quy chế chấm thi, Ban giám khảo sẽ cho điểm khuyến khích về sự sáng tạo trong nội dung trả lời và hình thức thể hiện (công phu, sạch đẹp...).

 

+ Đối với phần thi trên sân khấu: Bên cạnh những nguyên tắc như phần thi viết, Quy chế chấm thi cần quy định Ban giám khảo trừ điểm đối với thí sinh thực hiện phần thi quá thời gian quy định.

 

- Giải thưởng:

 

Ban tổ chức cuộc thi căn cứ vào kết quả chấm thi của Ban giám khảo để xếp giải và trao thưởng ngay sau khi kết thúc cuộc thi.

 

3.2. Tiến hành cuộc thi

 

a)Phát động, tuyên truyền cuộc thi và công bố thể lệ, nội dung (hoặc câu hỏi) cuộc thi:

 

Nên phát động, tuyên truyền cùng với kế hoạch tháng, kế hoạch đợt thi đua, trên bảng thông tin hoặc trên website của nhà trường.

 

b)Tổ chức buổi thi hoặc chấm thi: Đây là công việc quan trọng, là khâu chính trong giai đoạn tiến hành cuộc thi. Tuỳ hình thức cuộc thi, công việc này được thực hiện khác nhau.

 

- Đối với hình thức thí sinh trả lời trực tiếp: Ban tổ chức không những cần chuẩn bị tốt về nội dung mà cần phải thực hiện một loạt các công việc như: làm thủ tục đăng ký danh sách người dự thi, địa điểm thi, quy chế thi.

 

-Đối với hình thức thi viết: Người dự thi gửi bài dự thi. Ban tổ chức thu nhận bài thi đúng địa điểm, thời gian. Để tránh nhầm lẫn, tạo thuận lợi khi chấm thi, Ban tổ chức phải vào sổ, đánh số thứ tự các bài thi, lập danh sách theo dõi, trongđó ghi rõ tên, tuổi, địa chỉ người có bài thi. Bài thi nên được phân loại theo lớp để tiện cho việc thống kê, theo dõi và làm cơ sở cho việc xét tặng giải tập thể. Trước khi tổ chức chấm thi cũng cần phải chấm sơ khảo, loại các bài không hợp lệ.

 

Dù là hình thức thi trả lời trực tiếp hay thi viết, Ban giám khảo hoặc Ban chấm thi đều cần được quán triệt Quy chế chấm thi, đáp án, thang điểm, đảm bảo chính xác, khách quan, nghiêm túc, công bằng. Kết quả chấm thi được lưu lại để làm cơ sở cho việc xét giải và để giải quyết những thắc mắc, khiếu nại (nếu có) phát sinh.

 

3.3. Tổng kết cuộc thi

Đây là phần việc cuối cùng của Ban tổ chức cuộc thi nhằm đánh giá toàn diện kết quả cuộc thi, rút kinh nghiệm về phương pháp tổ chức và triển khai cuộc thi, từ đó phát huy kết quả cuộc thi trong công tác PBGDPL, đề ra phương hướng cho việc tổ chức các cuộc thi sau; đồng thời trao giải thưởng cho những người đạt giải.

 

Kết quả cuộc thi cần được công bố rộng rãi, bằng nhiều hình thức như tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng; thông báo trên các phương tiện thông tin... để vừa phát huy, nhân rộng kết quả cuộc thi, động viên học sinh dự thi, vừa khuyến khích, cổ vũ học sinh tìm hiểu pháp luật, chấp hành, tuân thủ pháp luật.

 

Đối với hình thức thi trả lời trực tiếp hoặc thi sân khấu hóa... kết quả cuộc thi được công bố ngay sau khi kết thúc buổi thi. Do đó, Ban tổ chức cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức tổng kết cuộc thi và trao giải thưởng.

 

4. Tổ chức hội thảo

 

Hội thảo là cuộc thảo luận làm sáng tỏ  cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề; đề xuất, kiến nghị hoặc dự báo về nội dung, hình thức PBGDPL một cách có cơ sở khoa học, hiệu quả.

 

4.1. Chuẩn bị tổ chức hội thảo

 

a) Chuẩn bị nội dung

 

- Có thể lựa chọn nội dung hội thảo về những vấn đề cần một định hướng lớn, thiết thực trong học sinh như: Hội thảo về phòng, chống tác hại của thuốc lá trong học sinh; Hội thảo giải pháp nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL trong nhà trường.

 

- Thông báo nội dung hội thảo để học sinh chuẩn bị ý kiến và thu thập tài liệu liên quan đến nội dung hội thảo.

 

- Chuẩn bị dẫn đề của Ban tổ chức. Dẫn đề cần ngắn gọn, cô đọng, có tính chất bao quát và gợi ý những vấn đề cần thảo luận.

- Căn cứ vào chủ đề có thể phân công các tham luận tại hội thảo. Phần thảo luận là một sinh hoạt có tính khoa học, do đó các tham luận khi chuẩn bị cần có căn cứ khoa học, có biểu mẫu thống kê, điều tra xã hội học, các số liệu, tư liệu, các dẫn chứng minh họa, chứng minh cho các quan điểm khoa học của mình.

 

- Chuẩn bị về nội dung: Lựa chọn, đề xuất chủ đề hội thảo, nội dung các tham luận; Xây dựng dẫn đề hội thảo; Phối hợp đặt bài tham luận. Với mỗi lĩnh vực nên lựa chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu trong lĩnh vực đó để chuẩn bị tham luận. Tham luận tại hội thảo yêu cầu phải khoa học, hợp lý và có tính  thuyết phụccao nên cần được chuẩn bị kỹ lưỡng. Việc lựa chọn, đặt bài tham luận phải tiến hành sớm, cẩn thận và khách quan. Bên cạnh đó, cần xây dựng Chương trình hội thảo.

 

- Chuẩn bị tổ chức: Chuẩn bị các điều kiện đảm bảo để tổ chức hội thảo; Xây dựng kịch bản điều hành hội thảo; Phân công người dẫn chương trình, thư  ký; chuẩn bị nước uống, bánh kẹo (nếu có), các tiết mục văn nghệ (nếu có); lên danh sách và liên hệ mời đại biểu, khách mời và người chủ trì hội thảo.

 

b) Chuẩn bị về điều kiện tổ chức

 

- Lập dự trù kinh phí và nguồn kinh phí tổ chức hội thảo. Lựa chọn thời điểm tổ chức để đảm bảo số lượng người tham gia theo yêu cầu (nên tổ chức vào ngày nghỉ), có chất lượng và đảm bảo tính thời sự của chủ đề.

 

- Kiểm tra về địa điểm tổ chức:

 

+ Về không gian: Hội trường (Hội thảo nên tổ chức khoảng dưới 100 người, kê bàn ghế hình chữ U), có bàn chủ tọa, bục phát biểu...

 

+ Về trang trí: Thông thường, trong các hội thảo, trang trí cần giản dị, đầy đủ, rõ ràng, khoa học.

 

+ Về ánh sáng, âm thanh: Cần chuẩn bị chu đáo về ánh sáng để tạo điều kiện cho đại biểu đọc tài liệu; micro phải đầy đủ, có thể có micro không dây để người tham gia hội thảo có thể chủ động phát biểu ý kiến, chất lượng âm thanh tốt. Các báo cáo viên có thể sử dụng các bảng biểu, hình ảnh minh hoạ, trước khi hội thảo diễn ra cần nắm bắt rõ hình thức trình bày của báo cáo viên để chuẩn bị không gian trưng bày hoặc  máy chiếu Over head,Projector...

 

Lưu ý:Có thể tổ chức hội thảo nhỏ trên sân khấu ở sân trường, có thầy, cô giáo, có đại diện các lớp cùng dự. Học sinh toàn trường chứng kiến và hưởng ứng. Chọn hình thức này, nếu thời tiết thuận lợi, sẽ có nhiều học sinh tham gia, chứng kiến và được tuyên truyền về những vấn đề cần định hướng giáo dục học sinh.

 

4.2. Chương trình một buổi hội thảo

 

- Ổn định tổ chức.

 

- Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.

 

- Trình bày đề dẫn tại hội thảo.

 

- Tham luận và thảo luận: Phần tham luận là một sinh hoạt có tính khoa học. Sau phần tham luận, có nội dung thảo luận về các vấn đề liên quan.

 

- Tổng kết hội thảo: Khẳng định những vấn đề đã được hội thảo nhất trí, trên cơ sở đó nêu những đề xuất và kiến nghị giải quyết vấn đề. Những vấn đề chưa được khẳng định cần định hướng cho các thành viên dự hội thảo tiếp tục suy nghĩ, nghiên cứu, đồng thời bám sát thực tiễn cuộc sống để điều chỉnh quan điểm của mình.

5.Sân khấu hóa nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật

 

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng hình thức sân khấu hóa có ưu điểm là sinh động, dễ hiểu, bởi tiểu phẩm tình huống được xây dựng trên cơ sở những câu chuyện xảy ra thường ngày. Văn bản luật vốn dĩ khô khan, khó nhớ đã được truyền tải bằng những câu chuyện có thực nên học sinh dễ hiểu và hiểu sâu vấn đề hơn. Sân khấu hóa nội dung tuyên truyền, phổ biến tuy tốn kém và công phu hơn hình thức khác nhưng bù lại học sinh chú ý xem và hào hứng, từ đó nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

 

5.1. Chuẩn bị

 

Hình thành ý tưởng nội dung sân khấu hóa: Thông thường căn cứ để hình thành là chủ đề tháng, thực hiện trong giờ chào cờ hoặc buổi dã ngoại.

 

Ví dụ về nội dung có thể sân khấu hóa theo chủ đề tháng của Sở Giáo dục và Đào tạo: Tháng 9: Chủ đề “An toàn giao thông” (Luật Giao thông đường bộ).

 

Tháng 10: Chủ đề: “Thanh niên với tình bạn, tình yêu và gia đình” (Luật Hôn nhân và gia đình).

 

Tháng 11: Chủ đề: “Thanh niên với truyền thống hiếu học” (Pháp luật về phòng, chống bạo lực học đường, quyền học tập của thanh, thiếu niên…).

 

Tháng 12: Chủ đề: “Thanh niên với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật Biển Việt Nam; pháp luật về phòng, chống ma túy, tội phạm và các tệ nạn xã hội trong học đường; pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS; pháp luật về phòng, chống tác tại của thuốc lá…).

 

Việc lựa chọn nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật và phân công đơn vị thực hiện thường do Phó Hiệu trưởng phụ trách công tác giáo dục hoặc Bí thư Đoàn trường thực hiện ngay từ đầu năm học.

 

b) Xây dựng kế hoạch tổ chức

 

- Mỗi chủ đề giao cho 2 - 4 lớp hoặc 1 - 2 lớp kết hợp với câu lạc bộ kịch, nhảy, văn nghệ... thực hiện với nguồn kinh phí hỗ trợ từ quỹ hoạt động của đoàn trường (300.000 đồng - 500.000 đồng).

 

- Xây dựng khung kịch bản: Đây là khâu rất quan trọng trước khi giao nhiệm vụ cho học sinh thực hiện. Học sinh nhận được kế hoạch, căn cứ vào khung chương trình để lựa chọn nội dung và thiết kế chi tiết chương trình cho phù hợp.

 

Ví dụ về chương trình tuyên truyền Luật Phòng, chống ma túy; HIV/AIDS:

Thời gian thực hiện: 40 - 45 phút.

 

MC giới thiệu lí do buổi tuyên truyền: 1 phút Tiểu phẩm tuyên truyền: 25 - 30 phút

 

Câu hỏi giao lưu: 5 - 7 phút

 

Văn nghệ: 4 - 6 phút

 

MC đưa ra thông điệp, kết thúc: 1 phút.

 

- Trong kế hoạch cần quy định rõ mục đích, yêu cầu, đối tượng, nội dung, hình thức; thời gian duyệt kịch bản chi tiết, thời gian duyệt chương trình, tổ chức; tiến độ thực hiện các công việc; lớp hoặc câu lạc bộ thực hiện; kinh phí hỗ trợ trang phục, tập luyện.

 

5.2. Thựchiện

 

- Trước khi công diễn cần duyệt cẩn thận chương trình và trang phục cho phù hợp. Nếu thấy chưa hợp lý thì giáo viên được phân công duyệt cần có  sự hướng dẫn cho học sinh điều chỉnh nội dung, ngôn từ, trang phục, đạo cụ… cho phù hợp.

 

- Địa điểm tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật là không gian rộng (Hội trường; sân trường có sân khấu; bãi đất rộng ở khu vực điểm dã ngoại).

 

- Chuẩn bị cơ sở vật chất: Loa máy, micro cài (nếu có thể), băng zôn, tranh ảnh tuyên truyền tạo hiệu ứng…

 

Lưu ý:Sân khấu hóa được xem là hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật đem lại hiệu quả cao nhất vì tạo được sự hứng thú cho đông đảo học sinh tham gia. Học sinh có thời gian tìm hiểu kỹ nội dung chủ đề giáo dục pháp luật được tuyên truyền một cách tự nguyện. Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm là:

 

- Đòi hỏi phải có giáo viên không chỉ giỏi về kiến thức pháp luật mà còn có năng khiếu nghệ thuật để định hướng và hướng dẫn học sinh thực hiện.

 

- Học sinh phải có năng khiếu diễn xuất, tập luyện mất nhiều thời gian.

 

- Kinh phí tốn kém.

Vì vậy, hình thức này chỉ nên áp dụng đối với những chuyên đề mang tính thời sự cao, ảnh hưởng trực tiếp đến nhà trường và học sinh như: pháp luật về giao thông đường bộ; pháp luật về phòng, chống ma túy, HIV/AIDS; Luật Hôn nhân và gia đình…

 

Trên đây là một số hình thức và kỹ năng PBGDPL ngoài giờ lên lớp cơ bản trong nhà trường đem lại hiệu quả giáo dục cao. Ngoài ra còn có một số hình thức khác như: Tư vấn pháp luật thông qua Tổ Tư vấn học đường; khai thác Tủ sách pháp luật; Thiết kế và phát tờ rơi về pháp luật; Câu lạc bộ pháp luật; Tọa đàm về vấn đề pháp luật cho học sinh... Các hình thức này tuy dễ thực hiện hơn nhưng số lượng học sinh tham gia ít, khó thu hút được sự chú ý của học sinh.

 

Vấn đề đặt ra đối với các trường trung học là làm thế nào để  công  tác PBGDPL ngoài giờ lên lớp đạt được hiệu quả cao, tránh hình thức, gây tốn kém  mà hiệu quả không cao. Để làm được điều đó, mỗi nhà trường cần lựa chọn hình thức phù hợp để sử dụng được nguồn nhân lực tại chỗ, tận dụng được cơ sở vật chất, phát huy được nhưng ưu thế của nhà trường, ưu thế của học sinh, đảm bảo 5 nhất, đó là: Tuyên truyền được nhiều học sinh nhất, học sinh hứng thú nhất, tốn ít kinhphí nhất, cơ sở vật chất đơn giản nhất, hiệu quả cao nhất./.

 

Thành Trung

 TIN TỨC LIÊN QUAN