Sửa đổi quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và quỹ quốc gia về việc làm

 

 

Ngày 09/7/2015 Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ đào tạo việc làm và quỹ quốc gia về việc làm. Tuy nhiên, sau gần 05 năm triển khai thực hiện một số nội dung không còn phù hợp, vì vậy Chính phủ đã ban hành Nghị định 74/2019/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung, cụ thể:

 

Về mức vay, trước đây Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy định mức vay đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức vay 01 dự án tối đa là 01 tỷ đồng và không quá 50 triệu đồng cho 01 người lao động được tạo việc làm. Mức này là tương đối thấp so so với yêu cầu thực tiễn, do đó 74/2019/NĐ-CP đã sửa đổi theo hướng tăng mức vay này, nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, cá nhân trong sản xuất kinh doanh. Theo đó, đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức vay tối đa là 02 tỷ đồng/dự án và không quá 100 triệu đồng cho 01 người lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Mức vay cụ thể do Ngân hàng Chính sách xã hội xem xét căn cứ vào nguồn vốn, chu kỳ sản xuất, kinh doanh, khả năng trả nợ của đối tượng vay vốn để thỏa thuận với đối tượng vay vốn.

 

Về thời hạn vay vốntối đa 120 tháng. Thời hạn vay vốn cụ thể do Ngân hàng Chính sách xã hội xem xét căn cứ vào nguồn vốn, chu kỳ sản xuất, kinh doanh, khả năng trả nợ của đối tượng vay vốn để thỏa thuận với đối tượng vay vốn. còn quy định trước đây thời hạn vay vốn là không quá 60 ngày.

 

Về điều kiện bảo đảm tiền vay, đối với mức vay từ 100 triệu đồng trở lên, cơ sở sản xuất, kinh doanh, người người lao động vay vốn ưu đãi để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải có tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm.

 

Về hồ sơ vay vốn, được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể, nhưng giảm bớt thủ tục hành chính không cần thiết cho người dân. Nếu như trước đây, đối với người lao độngngoài thành phần hồ sơ là Giấy đề nghị vay vốn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc cư trú hợp pháp, còn có thêmBản sao giấy tờ chứng minh đối tượng ưu tiên quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 12 của Luật Việc làm (nếu có), thì tại Nghị định này chỉ cần Giấy đề nghị vay vốn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc cư trú hợp pháp; thuộc đối tượng ưu tiên quy định tại điểm b khoản 2 Điều 12 Luật việc làm (nếu có) theo Mẫu số 1a và Mẫu số 1b ban hành kèm theo.

 

 Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, hồ sơ vay vốn Nghị định đã đã bỏ thành phần Giấy tờ liên quan đến tài sản bảo đảm (nếu có), chỉ giữ lại các thành phần hồ sơ sau:

 

- Dự án vay vốn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về nơi thực hiện dự án theo Mẫu số 2 ban hành kèm theo Nghị định này;

 

- Bản sao một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã; hợp đồng hợp tác; giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh;

 

- Giấy tờ chứng minh cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc đối tượng ưu tiên quy định tại điểm a khoản 2 Điều 12 Luật việc làm (nếu có), bao gồm:

 

+ Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật: Bản sao Quyết định về việc công nhận cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp;

 

+ Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người dân tộc thiểu số: Danh sách lao động là người dân tộc thiểu số, bản sao chứng minh nhân dân hoặc sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú và bản sao hợp đồng lao động hoặc quyết định tuyển dụng của những người lao động trong danh sách;

 

+ Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật và người dân tộc thiểu số: Danh sách lao động là người khuyết tật và người dân tộc thiểu số, bản sao giấy xác nhận khuyết tật của những người lao động là người khuyết tật do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp, bản sao chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú của những người lao động là người dân tộc thiểu số và bản sao hợp đồng lao động hoặc quyết định tuyển dụng của những người lao động trong danh sách.

 

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 08 tháng 11 năm 2019, các cơ quan quản lý nhà nước tăng cường tuyên truyền, phổ biến để chính sách này sớm được triển khai thực hiện có hiệu quả./.

 

  Hải Giang

 TIN TỨC LIÊN QUAN