Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh

        Xác định hoạt động xây dựng chính sách  đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra định hướng, giải pháp để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm phát triển kinh tế xã hội, thời gian qua, thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HĐND tỉnh đã xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về các cơ chế chính sách đặc thù của tỉnh. Qua theo dõi cho thấy, trong giai đoạn 2017-2020, ngoài việc triển khai thực hiện các chính sách của Trung ương, tỉnh đã chủ động ban hành hệ thống các cơ chế, chính sách đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Với 50 Nghị quyết về chính sách được chia làm 8 nhóm: Lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông thôn mới, hỗ trợ phát triển đô thị (06 chính sách); giáo dục và đào tạo (04 chính sách); y tế - dân số (10 chính sách); văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin và truyền thông (07 chính sách); khoa học và công nghệ (05 chính sách); đảm bảo xã hội (06 chính sách); phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã (06 chính sách); sắp xếp bộ máy, huy động nguồn nhân lực (06 chính sách). Để các chính sách được thực hiện có hiệu quả và đi vào cuộc sống, tỉnh đã huy động nguồn lực lớn để triển khai thực hiện. Theo đó, nguồn lực ngân sách các cấp được sử dụng để thực hiện các cơ chế, chính sách trên 7.512 tỷ đồng (trong đó: Ngân sách trung ương 269 tỷ đồng; tỉnh 2.633 tỷ đồng; huyện, xã 4.610 tỷ đồng). Theo đó, đã lồng ghép được 10.221 tỷ đồng từ nguồn vốn các Chương trình, chương trình mục tiêu quốc gia, dự án, mục tiêu và 68.226 tỷ đồng từ nguồn vốn xã hội hóa để cùng thực hiện mục tiêu của các đề án, cơ chế, chính sách đã ban hành. Với việc bố trí kinh phí tương đối lớn và hợp lý, các chính sách đã phát huy tốt vai trò tích cực trong việc thu hút các doanh nghiệp tham gia đầu tư, sản xuất kinh doanh tạo động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường, phát triển hạ tầng (đặc biệt là đường giao thông, trường học, trạm y tế), đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh và góp phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn.

        Tuy vậy, quá trình ban hành và triển khai thực hiện một số chính sách vẫn còn những hạn chế, bất cập. Một số chính sách khi ban hành chưa khảo sát, đánh giá sát đúng tình hình và đòi hỏi của thực tiễn; còn có sự trùng lắp đối tượng hỗ trợ giữa các chính sách; một số chính sách cụ thể hiệu quả chưa cao, thời gian thực hiện ngắn nên không khả thi; công tác thông tin, truyền thông còn hạn chế, chậm đến với các đối tượng thụ hưởng.

        Ngoài nguyên nhân khách quan do nguồn lực thực hiện chính sách khó khăn, những hạn chế nêu trên chủ yếu do nguyên nhân chủ quan, đó là: một số ngành chức năng chưa phát huy tốt vai trò tham mưu xây dựng chính sách; một số đơn vị triển khai thiếu quyết liệt; việc phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phương có mặt chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ; trong quá trình tổ chức thực hiện các cơ quan chức năng thiếu hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh phù hợp với thực tiễn…

        Để khắc phục những bất cập, hạn chế còn tồn tại, tại Kết luận số 23-KL/TU của Ban chấp hành đảng bộ tỉnh về đánh giá thực hiện các cơ chế, chính sách của tỉnh giai đoạn 2017 - 2020, phương hướng xây dựng chính sách giai đoạn 2021 – 2025 đã giao Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng lộ trình, kế hoạch thực hiện: dừng thực hiện và bãi bỏ các chính sách không còn phù hợp; sửa đổi, tích hợp, ban hành các chính sách mới để thực hiện trong giai đoạn 2021 - 2025 đảm bảo thống nhất, đồng bộ, thiết thực, phù hợp với thực tiễn và khả năng cân đối ngân sách của tỉnh, gắn với việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2021 - 2025 đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua. Theo đó, hiện nay một số chính sách đang nằm rả rác ở nhiều văn bản khác nhau sẽ đươc tích hợp lại thành một Nghị quyết chung theo từng lĩnh vực. Ví dụ như trên lĩnh vực khoa học công nghệ, tỉnh đang xây dựng dự thảo Nghị quyết một số chính sách về phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2021 – 2025 (tích hợp từ 03 Nghị quyết đó là: số 91/2018/NQ-HĐND ngày 18/7/2018 về việc ban hành một số chính sách hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2025 và những năm tiếp theo; số 215/2020/NQ-HĐND ngày 10/7/2020 về việc ban hành một số chính sách hỗ trợ xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ tỉnh Hà Tĩnh đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế giai đoạn 2020-2025 và những năm tiếp theo và số 252/2020/NQ-HĐND ngày 08/12/2020 về một số chính sách hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ, thị trường khoa học công nghệ và doanh nghiệp khoa học công nghệ tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2025); hay dự thảo Nghị quyết quy định chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2021-2025 (được tích hợp từ Nghị quyết số 72/2017/NQ-HĐND ngày 13/12/2017 về Quy định một số chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tỉnh Hà Tĩnh và khoản 9 Điều 12 Nghị quyết số 96/2018/NQ-HĐND ngày 18/7/2018 về phát triển giáo dục mầm non và phổ thông tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2025 và những năm tiếp theo và đ khoản 1 và khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 144/2015/NQ-HĐND ngày 17/7/2015 về một số cơ chế, chính sách đối với công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân trên địa bàn tỉnh)…

        Có thể nói với việc rà soát các chính sách của tỉnh trong giai đoạn 2017-2020 sửa đổi, tích hợp, ban hành các chính sách mới để tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách của tỉnh thực hiện trong giai đoạn 2021 – 2025 là rất cần thiết. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, trước hết là cần tiếp tục có sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh; các cấp, các ngành đã nhận thức ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn về công tác chính sách, từ đó có định hướng chiến lược, dài hạn hơn, gắn với thực tiễn công tác quản lý. Ngoài ra, quy trình xây dựng văn bản pháp luật được đổi mới và ngày càng hoàn thiện, có sự đầu tư nghiên cứu sâu nội dung, chính sách, đánh giá cẩn trọng về thẩm quyền ban hành, tính khả thi, nguồn lực đảm bảo thực hiện, đánh giá lợi ích của tổ chức, cá nhân, lợi ích của nhà nước khi văn bản có hiệu lực thi hành, đây là yếu tố quyết định đến chất lượng hệ thống cơ chế chính sách của tỉnh./.

 

          Hải Giang

 

 TIN TỨC LIÊN QUAN