Đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật đảm bảo nguyên tắc lấy người dân làm trung tâm

Hiện nay việc xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được thực hiện theo Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 09/2021/TT-BTP của Bộ Tư pháp. Tại Điều 2 Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg quy định ba nguyên tắc trong đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trong đó nguyên tắc lấy người dân làm trung tâm trong việc đánh giá, công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là nguyên tắc đầu tiên.

Mục tiêu của xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là nhằm thúc đẩy tổ chức thi hành pháp luật hiệu quả, hướng tới môi trường pháp lý tiến bộ tại cấp cơ sở, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, người dân được thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật. Qua đó bảo đảm tính nghiêm minh, tính gương mẫu, thượng tôn pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội của chính quyền cấp xã, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp hành chính gần dân nhất, hiểu dân nhất để phục vụ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. Xuất phát từ mục tiêu này, công tác xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật phải đảm bảo lấy người dân làm trung tâm. Nguyên tắc này được thể hiện rõ nét trong từng tiêu chí, chỉ tiêu và quy trình đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Các tiêu chí, chỉ tiêu quy định tại Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg là công cụ đo lường mức độ hoàn thành trách nhiệm được giao của chính quyền cấp xã trong tổ chức thi hành pháp luật và thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg, có 05 tiêu chí với 20 chỉ tiêu đánh giá xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, trong đó có 16 chỉ tiêu được kế thừa và bổ sung 04 chỉ tiêu mới nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho người dân trong việc tiếp cận với pháp luật và các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bộ tiêu chí đặc biệt chú trọng đến trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc đảm bảo các quyền hợp pháp của người dân như: quyền được tiếp cận thông tin, quyền được phổ biến, giáo dục pháp luật, quyền được trợ giúp pháp lý, quyền phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo, quyền được bàn, quyết định, biểu quyết, tham gia ý kiến về các nội dung theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở… Cùng với đó là trách nhiệm của chính quyền trong việc đảm bảo các điều kiện để người dân thực hiện các quyền này như: trách nhiệm công khai, cung cấp thông tin, giải quyết thủ tục hành chính, tổ chức đối thoại với nhân dân, trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ sở…

Nguyên tắc lấy người dân làm trung tâm không chỉ thể hiện trong tiêu chí, chỉ tiêu xây dựng mà còn thể hiện trong quy trình đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Theo quy định của Bộ Tiêu chí ban hành kèm theo Thông tư số 09/2021/TT-BTP, đối với nội dung xây dựng hình thức, mô hình thông tin, phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả tại cơ sở phải có từ 80% trở lên ý kiến của đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã, đại diện các thôn, tổ dân phố xác nhận mô hình đó hiệu quả. Đồng thời tại cuộc họp của UBND xã để xem xét, đánh giá, thống nhất kết quả đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, ngoài các thành phần của UBND xã còn phải có sự tham gia của nhóm các chủ thể nêu trên. Điều này cho thấy trong các bước đánh giá tại cấp xã, Thông tư 09/2021/TT-BTP đặc biệt chú trọng sự tham gia của các tổ chức, cá nhân đại diện cho người dân ở cơ sở. Bên cạnh đó trong trình tự, thủ tục đánh giá, công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật quy định tại Điều 5 Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg và Điều 3 Thông tư số 09/2021/TT-BTP thì dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, Bản tổng hợp điểm số của các tiêu chí, chỉ tiêu phải được niêm yết công khai tại trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân cấp xã, đăng tải trên Cổng (hoặc Trang) thông tin điện tử hoặc thông báo trên Đài truyền thanh cấp xã (nếu có) để Nhân được biết và tham gia ý kiến. UBND cấp xã có trách nhiệm tổng hợp, tiếp thu, giải trình đầy đủ, khách quan ý kiến của Nhân dân, kiến nghị, phản ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân (nếu có) về Báo cáo đánh giá kết quả đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, Bản tổng hợp điểm số của các tiêu chí, chỉ tiêu và các vấn đề khác liên quan đến việc chấm điểm, đánh giá xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Từ kết quả đánh giá, công nhận đạt chuẩn tiếp cận pháp luật hàng năm, chính quyền cấp xã sẽ có điều kiện nhận diện tổng thể, toàn diện, kịp thời những mặt được, mặt còn hạn chế, khó khăn trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ. Đây là cơ sở giúp chính quyền cấp xã có giải pháp khắc phục, xử lý kịp thời, phù hợp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng trong hoạt động của chính quyền cấp xã; thúc đẩy thực hiện dân chủ theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng.

Lấy người dân làm trung tâm trong đánh giá, công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là một nguyên tắc quan trọng, do đó UBND các cấp cần chú trọng thực hiện nghiêm túc nhằm đảm bảo mục đích, ý nghĩa của công tác này, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh, tính gương mẫu, thượng tôn pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội của chính quyền cấp xã, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân tại cơ sở./.

          Thiều Chiên

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: