Góp ý một số nội dung dự thảo Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở

Hải Giang

Hiện nay văn bản liên quan đến thực hiện dân chủ cơ sở có 4 văn bản quy định về vấn đề này gồm: Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết số 55/NQ-UBTVQH10 ngày 30/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.

Các văn bản nêu trên đã quy định tương đối đầy đủ các nội dung, hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, bảo đảm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước tại thời điểm ban hành, tạo lập cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân và của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại cơ sở, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống chính trị - xã hội ở nước ta.

Tuy nhiên, thực tiễn thi hành pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong thời gian qua cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế như: nội dung, hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng thực hiện dân chủ ở cơ sở được quy định ở nhiều văn bản có giá trị pháp lý khác nhau, chưa thống nhất, đồng bộ, toàn diện; trách nhiệm bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở thiếu cụ thể, thiếu chế tài xử lý; vai trò tham gia và giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân chưa rõ ràng; sáng kiến của Nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở sơ sở chưa được đề cao,..Vì vậy, cần phải có môt văn bản có giá trị pháp lý cao hơn đó là Luật để thống nhất đầu mối quy định về thực hiện dân chủ sở nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập trong thực tiễn thực hiện dân chủ ở cơ sở.

 Qua nghiên cứu cho thấy, dự thảo tiếp tục kế thừa quy định hiện hành, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số nội dung để phù hợp và đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn, do đó cơ bản tôi cũng đồng tình cao với nội dung dự thảo, ngoài ra, xin có một số ý kiến góp ý như sau:

1.     Về khái niệm dân chủ ở cơ sở

Tên gọi của Luật là thực hiện dân chủ ở cơ sở. Để thực hiện được dân chủ ở cơ sở thì cần có điều khoản giải thích và làm rõ dân chủ ở cơ sở là gì? Tuy nhiên, trong dự thảo Luật chưa đưa ra khái niệm dân chủ ở cơ sở. Do đó, tại Điều 2 dự thảo cần bổ sung quy định về khái niệm dân chủ ở cơ sở.

1.     Về giải thích thuật nhữ “thanh tra nhân dân”

 Khoản 5 Điều 2 giải thích thuật ngữ: Thanh tra nhân dân là hình thức kiểm tra, giám sát của Nhân dân thông qua Ban Thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước” là chưa đầy đủ.  Vì theo quy định của dự thảo thì thuật ngữ Nhân dân chỉ áp dụng trong phạm vi xã, phường, thị trấn và cộng đồng dân cư. Còn trong phạm vi cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp thì sử dụng thuật ngữ: cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Do đó đề nghị chỉnh sửa theo hướng: Thanh tra nhân dân là hình thức kiểm tra, giám sát của Nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thông qua Ban Thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước .

2. Giải thích thuật ngữQuyết định hành chính liên quan đến lợi ích cộng đồng

 Khoản 4 Điều 2 giải thích thuật ngữ “Quyết định hành chính liên quan đến lợi ích cộng đồng là quyết định ban hành hoặc phê duyệt chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch, dự án, đề án có nội dung tác động đến môi trường; sức khỏe của cộng đồng; trật tự, an toàn xã hội và những vấn đề khác làm ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng”. Tuy nhiên, hình thức ban hành là do cơ quan có thẩm quyền lựa chọn theo quy định nên việc dự thảo quy định các hình thức như quyết định ban hành hoặc phê duyệt chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch, dự án, đề án là không cần thiết. Do đó, đề nghị chỉnh sửa  như sau: Quyết định hành chính liên quan đến lợi ích cộng đồng là Văn bản ban hành có nội dung tác động đến môi trường; sức khỏe của cộng đồng; trật tự, an toàn xã hội và những vấn đề khác làm ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng.

3. Quy định về xử lý vi phạm

Tại Điều 8 dự thảo về xử lý vi phạm quy định thành hai khoản, một khoản  quy định việc xử lý đối với công dân, người lao động và người sử dụng lao động tại doanh nghiệp và một khoản quy định xử lý đối với cán bộ, công chức, viên chức, người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu vi phạm quy định về thực hiện dân chủ cơ sở. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức, người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu nếu vi phạm về thực hiện dân chủ cơ sở thì bị xử lý trách nhiệm dân sự, trong khi dự thảo không đặt ra hình thức trách nhiệm này đối với nhóm đối tượng là công dân, người lao động và người sử dụng lao động tại doanh nghiệp không . Tuy nhiên, pháp luật quy định xử lý thì tất cả các đối tượng đều bị xử lý. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét quy định này.

4. Hình thức văn bản của cộng đồng dân cư

 Khoản 1 Điều 18 quy định: “Hình thức văn bản của cộng đồng dân cư được ban hành dưới hình thức văn bản là Nghị quyết, biên bản cuộc họp, bản ghi nhớ, bản thỏa thuận của cộng đồng dân cư. Trường hợp pháp luật không quy định cụ thể về hình thức văn bản thì Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố lựa chọn hình thức văn bản của cộng đồng dân cư phù hợp với nội dung quyết định và phong tục, tập quán, điều kiện thực tiễn của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, quy định trường hợp pháp luật không quy định cụ thể về hình thức văn bản thì trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố lựa chọn hình thức văn bản của cộng đồng dân cư phù hợp với nội dung quyết định và phong tục, tập quán, điều kiện thực tiễn của cộng đồng dân cư là chưa chính xác. Đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung và chỉnh sửa như sau: Hình thức văn bản của cộng đồng dân được ban hành dưới hình thức văn bản là Nghị quyết, biên bản cuộc họp, bản ghi nhớ, bản thỏa thuận của cộng đồng dân cư. Trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định cụ thể về hình thức văn bản thì thực hiện theo pháp luật chuyên ngành. Trường hợp pháp luật chuyên ngành không quy định thì Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố lựa chọn hình thức văn bản nêu trên của cộng đồng dân cư phù hợp với nội dung quyết định và phong tục, tập quán, điều kiện thực tiễn của cộng đồng dân cư”.

5. Về các nội dung công khai

Điều 9, Điều 35 và Điều 45 có liệt kê các nội dung công khai tại xã, phường, thị trấn; cơ quan, đơn vị và trong doanh nghiệp (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước). Tuy nhiên, những nội dung thuộc bí mật nhà nước sẽ không được công khai. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo chỉnh sửa theo hướng loại trừ trường hợp thuộc bí mật nhà nước.

6. Ban giám sát đầu tư của cộng đồng

 Điều 29 dự thảo quy định về một trong các hình thức Nhân dân kiểm tra đó là thông qua Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Tuy nhiên, nội dung của dự thảo lại không có các điều khoản quy định về thẩm quyền thành lập, thành phần, cách thức hoạt động. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung nội dung này.

7. Về kiểm tra, giám sát việc thực hiện dân chủ ở Cơ quan đảng, đơn vị sự nghiệp trực của đảng; tổ chức chính trị - xã hội

Nội dung dự thảo quy định việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo đó, ở cơ sở ngoài cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp còn có cơ quan đảng, đơn vị sự nghiệp trực thuộc của đảng; tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, tại dự thảo chưa có quy định việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện dân chủ ở Cơ quan đảng, đơn vị sự nghiệp trực của đảng; tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, đề nghị bổ sung điều khoản quy định về nội dung này.

8. Về giao nội dung quy định chi tiết

Tại khoản 2 Điều 65 quy định về trách nhiệm của HĐND cấp xã “Quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ trong phạm vi địa bàn cấp xã” ;  Điều 69 dự thảo quy định thẩm quyền của UBND tỉnh: “Xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn”. Tuy nhiên, đây là nội dung giao địa phương quy định chi tiết, nhưng quy định này khó triển khai thực hiện, vì giao chung chung, không chi tiết, cụ thể. Qua tham khảo ý kiến Bộ Tư pháp cho thấy địa phương quy định biện pháp để thực hiện thì cũng phải phù hợp với quy định của Trung ương. Những biện pháp trung ương đã có mà địa phương quy định lại thì không cần thiết và trái với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (văn bản không được quy định lặp lại văn bản trung ương), còn những biện pháp khác ngoài luật thì trái. Dó đó, đề nghị bỏ quy định này./.

 

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: