Hướng dẫn một số quy định về lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản

Ngày 08/02/2022, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 02/2022/TT-BTP hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản. Để góp phần triển khai thi hành có hiệu quả, thống nhất Thông tư, Bộ Tư pháp có văn bản số 1949/BTP-BTTP ngày 14/6/2022 hướng dẫn thực hiện một số nội dung như sau:

Về đối tượng áp dụng, việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản được áp dụng đối với tổ chức đấu giá tài sản. Chi nhánh, Văn phòng đại diện của tổ chức đấu giá tài sản có thể nộp thay hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn nhưng hồ sơ đó phải đứng tên của tổ chức đấu giá tài sản và phải được tổ chức đấu giá tài sản ủy quyền hợp lệ. Người có tài sản đấu giá không nhận hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn đứng tên Chi nhánh, Văn phòng đại diện của tổ chức đấu giá tài sản. Kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản là kết quả đánh giá, chấm điểm đối với từng hồ sơ đăng ký tham gia của từng tổ chức đấu giá tài sản.

Về cách tính thời hạn, thời hạn 12 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ đối với các trường hợp tổ chức đấu giá tài sản bị trừ điểm quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 5 Thông tư số 02/2022/TT-BTP được tính bắt đầu từ ngày 25/3/2022. Năm trước liền kề nêu tại các khoản 1, 2, 6, 8 Mục III Phụ lục I được tính bắt đầu từ năm 2021.

Về hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng cùng loại tài sản với tài sản dự kiến đưa ra đấu giá quy định tại khoản 1 mục III Phụ lục I bao gồm hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản hoặc hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản đã ký (áp dụng đối với cả trường hợp đấu giá thành và đấu giá không thành).

Số lượng hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản cùng loại với tài sản dự kiến đưa ra đấu giá, số lượng cuộc đấu giá thành tài sản cùng loại với tài sản dự kiến đưa ra đấu giá phải được kê khai đầy đủ, thống nhất với số liệu trong báo cáo của tổ chức hành nghề đấu tài sản gửi Sở Tư pháp; trường hợp tổ chức đấu giá liệt kê không đầy đủ, không thống nhất thông tin với số liệu trong báo cáo tổ chức hành nghề đấu tài sản gửi Sở Tư pháp thì được coi là cố ý cung cấp thông tin không chính xác về tiêu chí trong hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn.

Về cách tính mức chênh lệch trung bình giữa giá trúng đấu giá so với giá khởi điểm (của các cuộc đấu giá thành tài sản cùng loại với tài sản dự kiến đưa ra đấu giá trong năm trước liền kề của tổ chức đấu giá tài sản) quy định tại khoản 2 mục III Phụ lục I được tính theo công thức: lấy mức chênh lệch giữa trung bình cộng của giá trúng đấu giá với trung bình cộng của giá khởi điểm nhân với 100 và chia cho trung bình cộng của giá khởi điểm.

Ví dụ: Trong năm trước liền kề, tổ chức đấu giá tài sản thực hiện được tổng số 03 cuộc đấu giá thành tài sản cùng loại với tài sản dự kiến đưa ra đấu giá. Cuộc đấu giá thứ nhất có giá khởi điểm là 3 tỷ, giá trúng đấu giá 5 tỷ. Cuộc đấu giá thứ hai có giá khởi điểm là 2 tỷ, giá trúng đấu giá 3 tỷ. Cuộc đấu giá thứ ba có giá khởi điểm là 1 tỷ, giá trúng đấu giá 4 tỷ. Trung bình cộng của giá trúng đấu giá là (5 tỷ + 3 tỷ +4 tỷ)/3 cuộc = 4 tỷ. Trung bình cộng của giá khởi điểm là (3 tỷ + 2 tỷ +1 tỷ)/3 cuộc = 2 tỷ. Mức phần trăm (%) chênh lệch để tính điểm là: (4-2)x100/2 = 100%.

Về thời gian hoạt động trong lĩnh vực đấu giá tài sản của tổ chức đấu giá quy định tại khoản 3 mục III Phụ lục I được tính như sau:

- Thời gian hoạt động của Trung tâm Dịch vụ đấu giá tài sản được tính từ thời điểm có Quyết định thành lập.

- Đối với doanh nghiệp đấu giá được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu giá tài sản, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về bán đấu giá tài sản và đã chuyển đổi theo quy định của Luật Đấu giá tài sản thì thời gian hoạt động được tính từ thời điểm được cấp Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh.

- Đối với doanh nghiệp đấu giá được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP nhưng không chuyển đổi theo quy định của Luật Đấu giá tài sản thì thời gian hoạt động trước đây không được tính vào thời gian hoạt động cho bất cứ doanh nghiệp đấu giá tài sản nào khác.

Về trách nhiệm của người có tài sản đấu giá:

- Phải thông báo công khai các tiêu chí cụ thể và số điểm chấm của mục V Phụ lục I về “Tiêu chí khác phù hợp với tài sản đấu giá do người có tài sản đấu giá quyết định”.

- Căn cứ thông tin trong hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn của tổ chức đấu giá tài sản tại thời điểm nộp hồ sơ để tự đánh giá, chấm điểm theo các tiêu chí quy định tại Phụ lục I và chịu trách nhiệm về kết quả đánh giá, chấm điểm. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan (không phải là người có tài sản) nếu có thông tin tiêu chí chấm điểm của tổ chức đấu giá tài sản thì không tự chấm điểm và không được công khai việc chấm điểm kèm theo các thông tin tiêu chí đó trừ trường hợp cung cấp thông tin cho người có tài sản theo quy định của pháp luật.

- Không được yêu cầu tổ chức đấu giá tài sản nộp bản chính hoặc bản sao có chứng thực các giấy tờ, tài liệu chứng minh về các nhóm tiêu chí, tiêu chí thành phần quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư, ví dụ: không được yêu cầu nộp bản chính hoặc bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh về trụ sở của tổ chức đấu giá, về hợp đồng dịch vụ đấu giá cùng loại tài sản với tài sản dự kiến đưa ra đấu giá…

- Đăng thông báo kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá trên Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản (đính kèm file thông báo kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo mẫu quy định tại Phụ lục II)./.

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: