Kết quả 03 năm thực hiện Nghị định về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

Để quản lý có hiệu quả công tác thi hành pháp luật về XLVPHC thì hoạt động kiểm tra công tác thi hành pháp luật về XLVPHC cũng như xử lý những sai phạm phát sinh trong quá trình người có thẩm quyền xử lý hành chính thực thi công vụ là rất cần thiết nhằm bảo đảm tính công bằng, khách quan, chính xác, minh bạch trong áp dụng pháp luật trong XLVPHC. Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 19/2020/NĐ-CP về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong THPL về XLVPHC đã tạo cơ sở pháp lý cụ thể, rõ ràng, minh bạch cho công tác kiểm tra, phát hiện và xử lý sai phạm của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan trong THPL về XLVPHC.

 

Qua 03 năm thực hiện Nghị định số 19/2020/NĐ-CP của Chính phủ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã đạt được một số kết quả quan trọng, nhất là trong công tác kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

UBND tỉnh, Sở Tư pháp đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai Nghị định. UBND tỉnh đã ban hành 02 Quyết định QPPL quy định về công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp trong thực hiện nhiệm vụ xử lý vi phạm hành chính, trong đó có kiểm tra công tác xử lý vi phạm hành chính. Công tác tuyên truyền, phổ biến được Sở Tư pháp và các sở, ngành, địa phương thực hiện thông qua nhiều hình thức phù hợp như tổ chức hội nghị, lồng ghép trong các cuộc họp giao ban, viết tin bài đăng Công thông tin điện tử…UBND tỉnh đã tổ chức 02 Hội nghị tập huấn công tác xử lý vi phạm hành chính và mời báo cáo viên của Bộ Tư pháp triển khai, trong đó có tập huấn các quy định tại Nghị định số 19/2020/NĐ-CP cho các thành phần là cán bộ, công chức phụ trách của các sở, ban, ngành cấp tỉnh và địa phương. Bên cạnh đó, đã cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn do Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành khác tổ chức. Hàng năm, Sở Tư pháp đều cử báo cáo viên tham gia tập huấn pháp luật tại các đơn vị, địa phương.

Hàng năm, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch kiểm tra và Quyết định kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đảm bảo nội dung, thời hạn, thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành theo đúng quy định tại Điều 12, Điều 13 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP (riêng năm 2021 do diễn biến phức tạp của dịch Covid nên tỉnh không ban hành kế hoạch kiểm tra).

Ở cấp tỉnh, từ ngày 31/3/2020 đến ngày 01/6/2023, đã tiến hành 13 cuộc kiểm tra định kỳ tại 06 đơn vị cấp tỉnh, 07 đơn vị cấp huyện (tại mỗi đơn vị cấp huyện kiểm tra 02 đơn vị cấp xã). Theo đó, trên cơ sở ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng đoàn kiểm tra là Lãnh đạo Sở Tư pháp đã ban hành 13 Kết luận kiểm tra. Ở cấp huyện, đã tiến hành 22 cuộc kiểm tra, ban hành 09 Kết luận kiểm tra do Chủ tịch UBND cấp huyện ký. Tại các cơ quan ngành dọc đóng trên địa bàn, đã tiến hành 22 cuộc kiểm tra, ban hành 22 Kết luận kiểm tra do Thủ trưởng cơ quan ký. Quá trình kiểm tra, Đoàn kiểm tra các cấp đã tiến hành lập biên bản, ban hành Kết luận kiểm tra và đảm bảo thực hiện các quyền của đối tượng kiểm tra theo quy định tại Nghị định số 19/2020/NĐ-CP và Thông tư số 14/2021/TT-BTP. Qua kiểm tra đã kịp thời chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền khắc phục những hạn chế, tồn tại trong việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Sau đợt kiểm tra, UBND tỉnh đã ban hành văn bản chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế của các đơn vị, địa phương, trong đó chú trọng nâng cao trách nhiệm, tăng cường công tác kiểm tra thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Việc thực hiện các kiến nghị, đề xuất của các đoàn kiểm tra tại các kết luận kiểm tra; kết quả việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra được các đối tượng kiểm tra và các đối tượng có liên quan khác thực hiện đầy đủ, những sai phạm nhỏ được phát hiện và sửa chữa, khắc phục kịp thời, các đối tượng kiểm tra có thái độ nghiêm túc rút kinh nghiệm. Từ khi triển khai Nghị định đến nay, không có kết luận kiểm tra không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, phải tiến hành kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP của Chính phủ.

Trong 03 năm thi hành Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh đã tổ chức triển khai thực hiện tốt công tác xử lý vi phạm hành chính, bố trí công chức và đảm bảo các điều kiện để thực hiện nhiệm vụ này. Đặc biệt, đối với các hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính phức tạp theo quy định tại Quyết định số 21/2019/QĐ-UBND ngày 25/4/2019 của UBND tỉnh, UBND các cấp đều giao cơ quan Tư pháp kiểm tra lại hồ sơ trước khi ban hành Quyết định xử phạt. Nhờ vậy, việc thực hiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cơ bản đảm bảo đúng quy định, đồng thời cũng đã chấn chỉnh, khắc phục kịp thời các sai sót. Do đó, không để xảy ra các vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật theo Nghị định số 19/2020/NĐ-CP.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thi hành Nghị định số 19/2020/NĐ-CP tại Hà Tĩnh vẫn còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc xuất phát từ hạn chế, bất cập trong quy định của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP và trong tổ chức thực hiện.

 Tại điểm a khoản 1 Điều 21 quy định “Người có thẩm quyền ban hành kết luận kiểm tra ra quyết định kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra khi có một trong các căn cứ sau đây: a) Hết thời hạn phải thực hiện kết luận kiểm tra mà đối tượng được kiểm tra không hoàn thành việc thực hiện và không có báo cáo kết quả thực hiện kết luận kiểm tra hay xin gia hạn thực hiện (nếu có)…”. Tuy nhiên, tại Nghị định chưa có quy định việc xin gia hạn này thực hiện cụ thể như thế nào (về thời gian, thủ tục...). 

Theo quy định tại Điều 23, cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị áp dụng mức xử lý kỷ luật với mức thấp nhất là khiển trách, đến cao nhất là buộc thôi việc (từ Điều 24 đến Điều 29 của Nghị định này). Tuy nhiên, Nghị định không quy định số lần vi phạm, mức độ vi phạm, hậu quả vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng cũng như có hướng dẫn chi tiết để làm căn cứ áp dụng, xử lý trong thực tiễn. Do vậy, đã gây lúng túng cho cơ quan, địa phương khi áp dụng quy định trên.

Tại khoản 3 Điều 23 quy định “... Việc xem xét, tăng nặng hoặc giảm nhẹ khi áp dụng hình thức kỷ luật cũng được áp dụng trong trường hợp thực hiện hành vi vi phạm do hoàn cảnh khách quan hoặc do lỗi của đối tượng vi phạm hành chính”. Việc quy định trong trường hợp thực hiện hành vi vi phạm do hoàn cảnh khách quan hoặc do lỗi của đối tượng vi phạm hành chính vẫn áp dụng xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành pháp luật về XLVPHC là chưa phù hợp.

Trong tổ chức thực hiện các nội dung quy định của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, Hà Tĩnh còn gặp phải một số khó khăn, đó là: (1) Tại Điều 8 quy định Đoàn kiểm tra được thành lập theo hình thức liên ngành và phải có từ 05 thành viên trở lên. Tuy nhiên, đối với UBND cấp huyện thì việc thành lập đoàn kiểm tra với số lượng thành viên như vậy quá trình triển khai gặp khó khăn do số lượng cán bộ, công chức cấp huyện được bố trí còn hạn chế trong khi các nhiệm vụ chuyên môn, xây dựng nông thôn mới nhiều. (2) Hiện nay, lực lượng làm nhiệm vụ tham mưu quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tương đối mỏng. Tại cấp tỉnh, nhiệm vụ này được giao cho Phòng Xây dựng, kiểm tra và theo dõi thi hành pháp luật, Sở Tư pháp với 02 biên chế phụ trách kiêm nhiệm, gồm 01 đồng chí Phó Trưởng phòng và 01 đồng chí chuyên viên tham mưu. Tại cấp huyện, Phòng Tư pháp tham mưu UBND cấp huyện trong nhiệm vụ này, tuy nhiên số lượng biên chế trung bình mỗi Phòng chỉ có 02 người trong khi phải thực hiện nhiệm vụ thuộc nhiều lĩnh vực công tác khác. (3) Tại một số đơn vị, địa phương, công chức trực tiếp tham mưu theo dõi, kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính chưa được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu, kiến thức, kinh nghiệm còn hạn chế.  

Để giải quyết những tồn tại, vướng mắc nêu trên, xin đề xuất một số giải pháp sau:

Trong tổ chức thực hiện hoạt động kiểm tra và xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính: Đề nghị Bộ Tư pháp tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung và kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng.

Tăng cường tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về xử lý vi phạm hành chính nói chung và kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng cho đội ngũ công chức làm công tác tham mưu quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính và đội ngũ người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính để nâng cao kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ này.

Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật: Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nội dung bất cập của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP nêu trên, cụ thể: Sửa đổi, bổ sung quy định về số lượng thành viên Đoàn kiểm tra liên ngành đối với cấp huyện tại Điều 8 để đảm bảo phù hợp với thực tiễn; quy định cụ thể hành vi tiết lộ thông tin, tài liệu về kết luận kiểm tra khi chưa có kết luận chính thức tại khoản 13 Điều 22 cần phải quy định loại trừ trường hợp tại khoản 1 Điều 15 để đảm bảo thống nhất trong quá trình áp dụng; bổ sung quy định việc xin gia hạn thực hiện kết luận kiểm tra; quy định cụ thể căn cứ xử lý kỷ luật như số lần vi phạm, mức độ vi phạm, hậu quả vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 23 theo hướng không áp dụng xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức trong trường hợp thực hiện hành vi vi phạm do hoàn cảnh khách quan hoặc do lỗi của đối tượng vi phạm hành chính.

Đặc biệt, đề nghị các bộ, ngành tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác xử lý vi phạm hành chính, kịp thời tham mưu sửa đổi, bổ sung các quy định chưa rõ ràng hoặc còn chồng chéo với các văn bản khác để tạo thuận lợi cho lực lượng chức năng trong quá trình triển khai nhiệm vụ, hạn chế trường hợp áp dụng không chính xác quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật dẫn đến vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Có thể thấy qua 03 năm thi hành Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, với việc triển khai Nghị định kịp thời, đồng bộ đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có liên quan trong thi hành pháp luật về XLVPHC. Theo đó, giúp công tác quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính nói chung, xử phạt vi phạm hành chính nói riêng trên địa bàn tỉnh được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn, góp phần quan trọng trong đảm bảo tình hình an ninh chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh./.

                                                                            Kim Khánh

 

         

         

 

 

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: