Một số vấn đề cần quan tâm trong quá trình triển khai phát triển đô thị thông minh và Trung tâm giám sát, điều hành thông minh

Chủ trương phát triển đô thị thông minh (ĐTTM) tại Việt Nam đã được đề cập tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị. Theo đó, tại Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đều đặt mục tiêu đến năm 2030 xây dựng được mạng lưới ĐTTM trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng kết nối quốc tế và 3 đến 5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế. Các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể ưu tiên phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ xác định tại Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 01/8/2018 phê duyệt Đề án Phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030 (Gọi tắt là Đề án 950).

Phát triển đô thị thông minh bền vững là vấn đề lớn, đòi hỏi tầm nhìn dài hạn, cần nhiều nguồn lực để tổ chức triển khai sự phối hợp tham gia của nhiều ngành, lĩnh vực và của cả cộng đồng xã hội. Do đó, để triển khai ICT phát triển ĐTTM nói chung và Trung tâm giám sát, điều hành thông minh (IOC) nói riêng đạt kết quả tốt, các địa phương cần có nhận thức thống nhất phát triển ĐTTM là một quá trình liên tục và lâu dài nên cần tầm nhìn dài hạn, toàn diện và một cách tiếp cận tổng thể, không chỉ tập trung vào khía cạnh công nghệ. Việc xây dựng ĐTTM đòi hỏi sự tham gia tích cực và chủ động của tất cả các cấp, các ngành tại địa phương, không phải nhiệm vụ riêng của bất kỳ ngành hay cơ quan cụ thể nào. Người đứng đầu chính quyền địa phương, đô thị cần nhận thức đúng và đầy đủ về ĐTTM dựa trên các quan điểm và nguyên tắc đã nêu tại Đề án 950. Bên cạnh đó, cũng cần có nhận thức phát triển ĐTTM chính là xây dựng một phương thức phát triển và vận hành đô thị hiện đại, hiệu quả dựa trên việc ứng dụng các công nghệ có tính đổi mới, sáng tạo, không phải một tập hợp rời rạc các hệ thống, ứng dụng của các cơ quan chuyên môn do các vấn đề trong đô thị có quan hệ chặt chẽ với nhau; Phát triển ĐTTM tại địa phương phải bảo đảm gắn kết chặt chẽ với quá trình chuyển đổi số tại địa phương, không tách rời, không trùng lặp, tất cả đều hướng đến mục tiêu lấy người dân làm trung tâm. Người dân vừa là đối tượng phục vụ, vừa là chủ thể tham gia thông qua các hình thức đầu tư xã hội hóa; Phát triển ĐTTM chính là thực hiện chuyển đổi số trong phạm vi, quy của đô thị nhưng tập trung vào việc giải quyết các vấn đề lớn của đô thị bao gồm giao thông, môi trường, năng lượng, xử lý rác thải, bảo đảm an ninh, trật tự đô thị,... Và để đạt được những nội dung này một cách bài bản thì các yếu tố thông minh phải được xác định, tính toán đưa vào ngay từ khi quy hoạch đô thị, thành phố. Cần xem hạ tầng thông tin đô thị, hạ tầng số và đặc biệt là hạ tầng dữ liệu như một hạ tầng thiết yếu của đô thị, là nền tảng để thông minh hóa các hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng kinh tế - xã hội khác. Một hạ tầng thông tin mạnh, thống nhất và an toàn là nền tảng để xây dựng chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trong không gian đô thị.

Trong quá trình triển khai phát triển ĐTTM, các địa phương cần lưu ý mỗi đô thị khác nhau phát triển ĐTTM theo những tiêu chí, những lĩnh vực khác nhau, tùy thuộc vào quy mô, tính chất đô thị, điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội, mức độ đầu mong muốn các vấn đề đô thị phải đối mặt. Do vậy, chính quyền địa phương, đô thị phải tự xác định các vấn đề bức thiết cần giải quyết của đô thị, từ đó tìm kiếm các giải pháp công nghệ phù hợp áp dụng một cách thông minh, hiệu quả vào đô thị. Mức độ thông minh hoàn toàn không dựa vào sản phẩm, giải pháp sẵn có của các doanh nghiệp trên thị trường phụ thuộc vào tư duy đổi mới, tầm nhìn dài hạn và quyết tâm của người đứng đầu địa phương, đô thị. Phát triển ĐTTM cần một kiến trúc ICT tổng thể để bảo đảm tính đồng bộ và bền vững trong triển khai, do đó, các địa phương đã phê duyệt Đề án, Kế hoạch phát triển ĐTTM căn cứ Khung tham chiếu ICT phát triển ĐTTM phiên bản 1.0 (tại Quyết định số 829/QĐ-BTTTT ngày 31/5/2019 của Bộ Thông tin Truyền thông) để sớm xây dựng ban hành Kiến trúc ICT phát triển ĐTTM, bảo đảm gắn kết, kế thừa các thành phần chức năng của Kiến trúc với Kiến trúc Chính quyền điện tử của địa phương; đồng thời xây dựng, ban hành Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả triển khai ĐTTM trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông tại Văn bản số 3098/BTTTT- KHCN ngày 13/9/2019 về việc công bố Bộ chỉ số đô thị thông minh Việt Nam giai đoạn đến năm 2025 (phiên bản 1.0) và định kỳ đo lường, đánh giá hiệu quả triển khai để kịp thời điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Để phát triển ĐTTM gắn kết chặt chẽ với quá trình chuyển đổi số địa phương mình, các địa phương cần phải chủ động soát các Đề án, Kế hoạch phát triển ĐTTM đã ban hành để kịp thời cập nhật, bổ sung các nội dung triển khai, bảo đảm bám sát 07 nhóm nhiệm vụ ưu tiên triển khai theo lộ trình tại Đề án 950 phù hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn của địa phương. Bên cạnh đó, các địa phương khi phát triển ĐTTM phải quan tâm thích đáng đến việc bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, bảo vệ thông tin cá nhân và quyền riêng tư theo quy định của pháp luật; đồng thời thực hiện truyền thông, nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp về lợi ích mang lại của ĐTTM để người dân, doanh nghiệp cùng tham gia với chính quyền ngay từ khi bắt đầu triển khai ĐTTM. Xây dựng công cụ cho phép đo lường mức độ quan tâm, mức độ sử dụng, mức độ hài lòng của người dân để ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ ĐTTM.

Đối với việc triển khai Trung tâm IOC, các địa phương không được nóng vội, không triển khai Trung tâm IOC khi chưa xác định rõ sự cần thiết, mục tiêu, yêu cầu cụ thể, chưa bảo đảm sẵn sàng các yếu tố cần thiết cho việc duy trì, vận hành và chưa xác định rõ các tiêu chí, chỉ tiêu đo lường, đánh giá hiệu quả triển khai Trung tâm IOC. Các địa phương phải chủ động xác định bài toán cụ thể khi triển khai Trung tâm IOC để giải quyết các vấn đề mang tính đặc thù, đặc trưng của địa phương, đô thị, không phụ thuộc vào các sản phẩm, giải pháp sẵn có của doanh nghiệp, chủ động xác định bài toán để đặt hàng với doanh nghiệp công nghệ và làm chủ công nghệ, làm chủ các nguồn dữ liệu của Trung tâm IOC. Các địa phương cũng cần sớm xây dựng kho dữ liệu dùng chung và nền tảng tổng hợp, phân tích dữ liệu cấp tỉnh phục vụ cho cả chuyển đổi số và phát triển ĐTTM. Thành lập tổ liên ngành phân tích dữ liệu phục vụ lãnh đạo chính quyền trong chỉ đạo, điều hành. Các yếu tố thông minh và hiệu quả khai thác sử dụng Trung tâm IOC chủ yếu nằm ở hệ thống phần mềm của Trung tâm IOC, hệ thống màn hình hiển thị (dashboard) chỉ giúp hiển thị thông tin, dữ liệu một cách trực quan trên hệ thống màn hình lớn để dễ dàng quan sát, phù hợp với việc giám sát, điều hành các hoạt động thường ngày của đô thị gắn với hiện trường như giám sát giao thông, an ninh trật tự,... Do vậy, các địa phương cần cân nhắc việc triển khai phòng giám sát, điều hành với hệ thống dashboard nếu chỉ hiển thị các thông tin, dữ liệu mang tính thống kê, tổng hợp. Ngoài ra, mức đầu cho Trung tâm IOC giữa các địa phương rất khác nhau, tiềm ẩn nguy cơ và rủi ro lãng phí trong triển khai nếu không xác định và đánh giá rõ được hiệu quả triển khai.

Việc tổ chức triển khai ICT phát triển ĐTTM nói chung và việc triển khai Trung tâm giám sát, điều hành thông minh (IOC) nói riêng được thực hiện dần từng bước, tổ chức thí điểm điển hình, rút kinh nghiệm trước khi nhân rộng; bảo đảm hài hòa giữa yêu cầu phát triển dài hạn của đô thị với nhu cầu bức thiết của người dân; đảm bảo hiệu quả đầu ngắn hạn dài hạn, không phát triển tự phát, tràn lan, theo phong trào. Quá trình triển khai, người đứng đầu địa phương phải trực tiếp vào cuộc để xác định tầm nhìn, chiến lược dài hạn cho phát triển ĐTTM tại địa phương mình; trực tiếp chỉ đạo tổ chức triển khai giám sát, đánh giá kết quả, hiệu quả triển khai ĐTTM tại địa phương. Bên cạnh đó phát triển ĐTTM đòi hỏi sự tham gia của tất cả các bên liên quan, trong đó người dân phải được tham gia ngay từ đầu khi chính quyền xây dựng chính sách phát triển ĐTTM, không nên thực hiện theo cách áp đặt từ trên xuống. duy lấy người dân làm trung tâm phải được định hình ngay từ khi thiết kế ĐTTM.

Hiện nay, trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông, tỉnh ta cũng đã chỉ đạo, giao Sở Xây dựng, Sở Thông tin và Truyền thông cùng các sở, ban, ngành cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã theo chức năng, nhiệm vụ của ngành, địa phương mình chủ động triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến việc phát triển ĐTTM và xây dựng Trung tâm giám sát, điều hành thông minh (IOC). Tin tưởng rằng, với sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền các cấp việc triển khai ICT phát triển ĐTTM nói chung và việc triển khai Trung tâm giám sát, điều hành thông minh (IOC) nói riêng trên địa bàn Hà Tĩnh sẽ đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần phát triển đô thị thông minh bền vững./.

Kiều Oanh

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: