Việc áp dụng quy định về vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn

Việc quy định vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn và các chính sách áp dụng cho các vùng này thể hiện tính nhân văn cao của Đảng và Nhà nước ta. Hiện nay, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được quy định trong các văn bản pháp luật như pháp luật đầu tư và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I vùng dân tộc thiểu số và miền núi, danh sách huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo. Do đó, để xác định một chính sách nào đó được áp dụng với vùng (xã) đặc biệt khó khăn nào cần phải căn cứ vào mục đích, nội dung cụ thể của chính sách.

Trong lĩnh vực đầu tư, Luật Đầu tư năm 2020 quy định dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư theo quy định. Theo đó, tại Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư đã ban hành danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Phụ lục III) để áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư. 

Trong lĩnh vực đất đai, tại điểm h khoản 2 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013 quy định trường hợp“Giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân có hộ khẩu thường trú tại thị trấn thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà không có đất ở và chưa được Nhà nước giao đất ở” thì không đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất. Luật Đất đai năm 2013 chưa thể hiện rõ cách xác định vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, trong quy định về miễn tiền sử dụng đất tại Nghị định số 45/2014/NĐ-CP và quy định miễn tiền thuê đất tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP đã có sự phân định việc áp dụng vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn cho trường hợp liên quan đến giao đất ở và trường hợp có dự án đầu tư. Theo đó, tại khoản 2 Điều 11 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định miễn tiền sử dụng đất trong hạn mức giao đất ở thì thực hiện theo Danh mục các xã đặc biệt khó khăn do Thủ tướng Chính phủ quy định và khoản 3 Điều 19 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP quy định miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản theo dự án thì thực hiện theo Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư.  

Như vậy, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ có liên quan được áp dụng để giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân có hộ khẩu thường trú tại thị trấn mà không có đất ở và chưa được Nhà nước giao đất ở theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013. Còn vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư được áp dụng khi xem xét giao đất, cho thuê đất cho dự án đầu tư theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 118 và điểm a khoản 1 Điều 110 của Luật Đất đai năm 2013.

Trong lĩnh vực nội vụ, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2019/NĐ-CP quy định về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang (Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và cơ yếu) công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Theo đó, tại khoản 2 Điều 1 Nghị định này quy định vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn ngoài huyện đảo Trường Sa, Hoàng Sa, DK1 chỉ có các xã khu vực III thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi, xã đảo đặc biệt khó khăn và các thôn, buôn, xóm, bản, làng, phum, sóc, ấp,... (gọi chung là thôn) đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Trên đây là một số trường hợp áp dụng quy định về vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn để thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước. Các cơ quan cũng như công chức tham mưu cần lưu ý để việc áp dụng quy định này đảm bảo chính xác, hiệu quả./.

                                                                Kim Khánh

 

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: