Kiến nghị hoàn thiện một số quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Thực hiện Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong thời gian qua công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Các doanh nghiệp đã được tiếp cận các thông tin pháp luật một cách nhanh chóng; chế độ, chính sách, pháp luật được giới thiệu kịp thời, từ đó trang bị thêm kiến thức pháp luật cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong triển khai dự án cũng như giải quyết tốt các thủ tục hành chính có liên quan; các khó khăn, vướng mắc được giải đáp kịp thời; cải thiện môi trường, hạn chế rủi ro trong đầu tư kinh doanh cho doanh nghiệp. Sau 05 năm triển khai thi hành Nghị định, đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như sau:

Thứ nhất, chủ thể hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại Nghị định số 55/2019/NĐ-CP chỉ có thể là các cơ quan hành chính nhà nước (Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh). Các tổ chức đại diện doanh nghiệp nếu có tham gia hỗ trợ pháp lý cũng chỉ ở vai trò hỗ trợ, phối hợp nhưng thực tế các tổ chức đại diện này vẫn thường xuyên tiến hành hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp một cách độc lập. Do đó, việc quy định này sẽ hạn chế sự tham gia của các tổ chức đại diện doanh nghiệp trong việc tham gia hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.

Thứ hai, theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP thì hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện thông qua hình thức cập nhật cơ sở dữ liệu về vụ việc, vướng mắc pháp lý (gồm bản án, quyết định của Tòa án; phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; quyết định xử lý vi phạm hành chính liên quan đến doanh nghiệp có hiệu lực thi hành; các văn bản trả lời của Bộ, cơ quan ngang Bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình áp dụng pháp luật; các văn bản tư vấn pháp luật của mạng lưới tư vấn viên pháp luật đối với các vụ việc, vướng mắc pháp lý theo yêu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa). Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện quy định này khó khăn vì phải phối hợp với nhiều cơ quan khác nhau như Tòa án, các sở, ban, ngành lấy thông tin để cập nhật và hiện nay Bộ chưa xây dựng cơ sở dữ liệu nên chưa thực hiện được nhiệm vụ này.

Thứ ba, quy trình, thủ tục công nhận mạng lưới tư vấn viên pháp luật

Khoản 2 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định “Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xây dựng mạng lưới tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi là mạng lưới tư vấn viên). Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tư vấn khi sử dụng dịch vụ tư vấn thuộc mạng lưới tư vấn viên.”. Tuy nhiên, Luật và Nghị định số 55/2019/NĐ-CP không quy định về tiêu chí công nhận tư vấn viên pháp luật hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng không có quy định giao các Bộ, cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền quy định, hướng dẫn về tiêu chí và thủ tục công nhận tư vấn viên pháp luật.

Thứ tư, mức hỗ trợ chi phí tư vấn pháp luật quy định tại Nghị định số 55/2019/NĐ-CP rất thấp so với chi phí thực tế thuê dịch vụ pháp lý của doanh nghiệp hiện nay và nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý của doanh nghiệp. Theo Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP thì doanh nghiệp siêu nhỏ được hỗ trợ 100% chi phí tư vấn pháp luật theo văn bản thỏa thuận cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật giữa tư vấn viên pháp luật và doanh nghiệp, nhưng không quá 03 triệu đồng một năm, doanh nghiệp nhỏ được hỗ trợ tối đa 30% nhưng không quá 05 triệu đồng một năm, doanh nghiệp vừa được hỗ trợ tối đa 10% nhưng không quá 10 triệu đồng một năm. Mức chi phí này không chỉ hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời không khuyến khích được các tổ chức tư vấn pháp lý tham gia mạng lưới để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ năm, quy định về thủ tục hỗ trợ phí tư vấn pháp luật còn tồn tại một số bất cập

Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP quy định về việc doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng dịch vụ tư vấn của tư vấn viên thuộc mạng lưới tư vấn viên pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ sẽ được cơ quan quản lý mạng lưới tư vấn viên pháp luật đó xem xét, hỗ trợ chi phí tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục thực hiện còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho cả cơ quan thụ lý, xét duyệt hồ sơ và doanh nghiệp khi thực hiện, cụ thể:

Trình tự, thủ tục hỗ trợ chi phí tư vấn pháp luật còn nhiều bước, mang tính phức tạp. Theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP, doanh nghiệp nhỏ và vừa phải 02 lần làm hồ sơ đề nghị để được hưởng hỗ trợ. Theo đó, đầu tiên doanh nghiệp cần nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP. Sau đó, trường hợp được đồng ý hỗ trợ thì nộp hồ sơ đề nghị thanh toán chi phí tư vấn pháp luật được hỗ trợ theo quy định tại khoản 4 Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP. Quy định này sẽ khiến nhiều doanh nghiệp e ngại, không muốn tiếp cận hỗ trợ tư vấn pháp luật.

Bên cạnh đó, các quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục đề nghị hỗ trợ và thanh toán chi phí tư vấn pháp luật tại Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP dẫn chiếu đến Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, Nghị định số 39/2018/NĐ-CP đã hết hiệu lực từ ngày 15 tháng 10 năm 2021 và được thay thế bởi Nghị định số 80/2021/NĐ-CP.

Ngoài ra, Thông tư số 64/2021/TT-BTC ngày 29/7/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước phục vụ hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa không quy định kinh phí cho hoạt động tư vấn pháp luật của mạng lưới tư vấn viên pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn các doanh nghiệp ở địa phương rất cần hoạt động tư vấn pháp luật. Ngoài ra, tại Thông tư này quy định việc dẫn các mức chi theo các văn bản chuyên ngành. Tuy nhiên, khi thực hiện có những trường hợp không có nội dung chi tương ứng gây khó khăn cho địa phương trong quá trình áp dụng văn bản. Ví dụ như: tại khoản 1 Điều 3 chi theo Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 nhưng tại theo Nghị định số 73/2019/NĐ-CP không có các nội dung chi cụ thể.

 Trong thời gian tới, đề nghị Bộ Tư pháp tổng hợp các khó khăn vướng mắc về pháp luật nêu trên và tham mưu sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi cho phù hợp. Đồng thời, cần tăng cường công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tập trung vào các chuyên đề bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp với nội dung là các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, giúp doanh nghiệp hoạt động và phát triển dựa trên một nền tảng pháp lý ổn định, bền vững, lâu dài./.

Thanh Hoa

 TIN TỨC LIÊN QUAN