Một số điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình
Ngày 19-6-2014, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp lần thứ 7 đã thông qua Luật hôn nhân và gia đình (sau đây gọi là Luật HNGĐ năm 2014). Luật gồm 09 Chương, 133 Điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015.
Với những sửa đổi, bổ sung quan trọng, phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam, Luật HNGĐ năm 2014 đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của đời sống hôn nhân và gia đình trong tình hình mới.
Nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổithay vì vừa bước qua tuổi 18 như quy định tại Luật HNGĐ năm 2000. Quy định này bảo đảm thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Cụ thể, theo Bộ luật Dân sự năm 2005 người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý… Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn sẽ dẫn đến thiếu đồng bộ với các văn bản pháp luật trên và làm hạn chế một số quyền của nữ giới khi xác lập các giao dịch như quyền yêu cầu ly hôn thì phải có người đại diện.
Không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Nếu như Luật HNGĐ năm 2000 quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”, thì Luật HNGĐ 2014 chỉ quy định “không thừa nhận”. Điều đó có nghĩa là những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn, tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra.
Luật HNGĐ năm 2014 chính thức thừa nhận và cho phép mang thai hộ với mục đích nhân đạosong phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. Theo đó, các cặp vợ chồng vì lý do nào đó không thể tự sinh con thì có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện, gồm: Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ 05 điều kiện: Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng và đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Việc bổ sung quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thể hiện tính nhân văn sâu sắc, đáp ứng nhu cầu làm cha mẹ chính đáng của các cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Luật quy định việc thỏa thuận tài sản giữa vợ, chồng phải được lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn. Thỏa thuận này vẫn có thể được thay đổi sau khi kết hôn. Quy định này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay.
Luật bổ sung thêm các đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn.Theo đó, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì từ ngày 0/01/2015, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Chồng không có quyền ly hôn khi vợ đang có thai, vừa sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Luật quy định vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hônđối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên (Luật HNGĐ năm 2000 quy định từ đủ 09 tuổi trở lên) thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Theo quy định của Luật HNGĐ năm 2000 thì “con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác”, nay theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014 thì “con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Luật quy định cụ thể việc áp dụng tập quán trong hôn nhân gia đình,đó là chỉ được áp dụng tập quán trong trường hợp pháp luật không có quy định khác và các bên không có thỏa thuận nhưng không được trái với các nguyên tắc, vi phạm các điều cấm của Luật này./.
Nguyễn Ngọc