Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 166/2013/NĐ-CP - những vướng mắc trong thực tiễn thi hành

Qua gần 10 năm thi hành, Nghị định số 166/2013/NĐ-CP đã có tác động tích cực, toàn diện đến các mặt của đời sống xã hội. Với những quy định của Nghị định đã giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu rõ hơn về tính nghiêm minh của pháp luật cũng như việc thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, từ đó ứng xử phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác này, việc quy định trình tự thủ tục, thẩm quyền trong cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã khắc phục những sai sót trong quá trình áp dụng Luật cũng như Nghị định hướng dẫn, từ đó hạn chế tình trạng khiếu nại, tố cáo của tổ chức, cá nhân.

Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai thi hành Nghị định, các cơ quan, địa phương gặp phải những vướng mắc xuất phát từ quy định của Nghị định số 166/2013/NĐ-CP, cụ thể:

Một là, Nghị định số 166/2013/NĐ-CP còn quy định chung chung về công tác thi hành cưỡng chế trong xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể, Nghị định chỉ quy định người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt, ra quyết định cưỡng chế và tổ chức thi hành (tại Chương I) mà chưa quy định chi tiết về công tác phối hợp, huy động nguồn lực, vật lực trong quá trình cưỡng chế.

Hai là, khoản 1 Điều 5 Nghị định số 166/2013/NĐ-CP quy định “Ngay sau khi ra quyết định cưỡng chế, người có thẩm quyền quyết định cưỡng chế phải tổ chức gửi quyết định cưỡng chế cho cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế, tổ chức, cá nhân có liên quan”. Tuy nhiên, việc quy định thời hạn gửi quyết định là “ngay sau khi” dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng thời hạn này (có thể hiểu bằng giờ, ngày…), do đó dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, ảnh hưởng đến tính kịp thời của việc gửi quyết định cưỡng chế và thi hành việc cưỡng chế. Do đó, cần thiết quy định rõ thời hạn là bằng “giờ” hay “ngày” cụ thể (như thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính hiện nay) để đảm bảo thực hiện thống nhất trong thực tiễn.

Ba là, khoản 1 Điều 14 quy định “Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế khấu trừ tiền từ tài khoản có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp thông tin về tài khoản của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, Nghị định chưa có quy định rõ về quyền của người đề nghị cung cấp thông tin trong trường hợp này, gây khó khăn trong quá trình áp dụng.

          Bốn là, Điều 20 Nghị định quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính qua xác minh thông tin về tài sản của đối tượng bị cưỡng chế. Tuy nhiên, trên thực tế khi cưỡng chế thi hành thì một số đối tượng bị cưỡng chế không có tài sản để thực hiện kê biên, trong khi đó Nghị định chưa hướng dẫn thủ tục sau khi xác minh đối tượng bị cưỡng chế không có tài sản để kê biên, dẫn đến lực lượng chức năng còn có những lúng túng trong quá trình thực hiện.

          Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 166/2013/NĐ-CP quy định “Cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin về tài sản của đối tượng bị cưỡng chế khi có yêu cầu của cơ quan ra quyết định cưỡng chế”. Tuy nhiên, Nghị định chưa có quy định chế tài để xử lý trong trường hợp các tổ chức tín dụng và tổ chức, cá nhân liên quan không thực hiện việc cung cấp thông tin, gây khó khăn cho các cơ quan, người có thẩm quyền trong quá trình thu thập thông tin

          Năm là, hiện nay tại Nghị định số 166/2013/NĐ-CP không quy định ngoại lệ không áp dụng biện pháp kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá. Tuy nhiên, điểm b khoản 1 Điều 35 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định “Không áp dụng kê biên tài sản trong trường hợp người nộp thuế là cá nhân đang trong thời gian chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh được thành lập theo quy định của pháp luật”.. Do đó, khi tình huống này xảy ra trên thực tế có thể làm phát sinh những vướng mắc khi xác định đối tượng bị kê biên tài sản do sự thiếu thống nhất của các quy định nói trên. Trong thời gian tới, cần rà soát để sửa đổi, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Sáu là, Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định 05 biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, gồm: (i) Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập; (ii) khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm; (iii) kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; (iv) thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do cá nhân, tổ chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản; (v) buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.

Trong số 05 biện pháp nêu trên thì có 04 biện pháp đầu tiên là để cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tiền và biện pháp cuối cùng là để cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt có biện pháp khắc phục hậu quả. Trên thực tế, có những hình thức xử phạt khác như: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động có thời hạn… nhưng Luật cũng như Nghị định số 166/2013/NĐ-CP chưa có quy định biện pháp cưỡng chế trong trường hợp đối tượng vi phạm không chấp hành quyết định./.

Thanh Hoa

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: