Một số điểm mới của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng

Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 09/12/2020, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2021, gồm có 7 chương và 58 Điều, là văn bản pháp lý quan trọng, thể chế hóa chủ trương, đường lối chỉ đạo của Đảng về công tác người có công với cách mạng, là nền tảng pháp lý cho các cấp chính quyền tổ chức triển khai việc xác nhận, công nhận người có công và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người có công và thân nhân người có công với cách mạng.

Pháp lệnh gồm một số nội dung và điểm mới quan trọng sau đây:

Bổ sung các nguyên tắc thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng

Pháp lệnh đã bổ sung 10 điều mới và sửa đổi 41 điều, trong đó có việc bổ sung các nguyên tắc thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng theo tinh thần Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng như chăm lo sức khỏe, đời sống vật chất, tinh thần của người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng; chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng được xác định và điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, bảo đảm mức sống của người có công với cách mạng bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú.

Quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn người có công theo đúng nguyên tắc chặt chẽ, thật sự xứng đáng, tôn vinh đúng đối tượng

Pháp lệnh quy định về điều kiện, tiêu chuẩn người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945 tại điểm a, b khoản 1 Điều 8; quy định điều kiện, tiêu chuẩn công nhận người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 11. Pháp lệnh cũng quy định chặt chẽ hơn về điều kiện công nhận liệt sĩ tại điểm a, b, g, l và k Điều 14. Pháp lệnh đã sửa đổi, bổ sung các điều kiện, tiêu chuẩn công nhận thương binh, người hưởng chính sách như thương binh tại điểm a, b, d, g, k khoản 1 Điều 23; Bổ sung điều kiện, tiêu chuẩn bà mẹ Việt Nam anh hùng tại Điều 17 Pháp lệnh. Theo đó, “Bà mẹ Việt Nam anh hùng là người được tặng hoặc truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” theo quy định tại Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

Về điều kiện, tiêu chuẩn bệnh binh: Pháp lệnh quy định xem xét công nhận bệnh binh với trường hợp có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên khi làm nhiệm vụ cấp bách, nguy hiểm mà không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí khi thôi phục vụ trong quân đội nhân dân, công an nhân dân tại khoản 1 Điều 26. Đồng thời, bổ sung quy định giao Chính phủ quy định chi tiết Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học tại khoản 2 Điều 29.

Chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng và thân nhân được tập hợp để quy định một cách thống nhất, rõ ràng, cụ thể theo từng đối tượng.

 Pháp lệnh đã bổ sung các chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng tại các điểm g, h, i và k khoản 2 Điều 5 về miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất đối với đất ở; chế độ ưu tiên giao hoặc thuê đất, ưu tiên giao, khoán bảo vệ và phát triển rừng; chế độ vay vốn ưu đãi để sản xuất, kinh doanh, miễn hoặc giảm thuế theo quy định của pháp luật về thuế.

Pháp lệnh quy định chế độ trợ cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình, phương tiện, thiết bị phục hồi chức năng phải theo chỉ định của cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng tại khoản 5 Điều 9, điểm d khoản 1 Điều 12, khoản 8 Điều 16, khoản 4 Điều 21, khoản 5 Điều 24, khoản 4 Điều 27, khoản 6 Điều 30, khoản 5 Điều 31, khoản 5 Điều 33, khoản 1 Điều 39.

Pháp lệnh đã bổ sung chế độ bảo hiểm y tế đối với thân nhân người hoạt động cách mạng tại khoản 1 Điều 10 và khoản 1 Điều 13 (trước đây chỉ được hưởng khi người hoạt động cách mạng chết).

 Về chế độ ưu đãi đối với liệt sĩ, thân nhân liệt sĩ: Pháp lệnh đã bổ sung chế độ tại khoản 1, 2, 4 của Điều 15, quy định rõ người được hưởng chế độ thờ cúng đối với liệt sĩ không có thân nhân là người được giao, ủy quyền thờ cúng liệt sỹ tại khoản 3 Điều 15. Bổ sung chế độ hỗ trợ thăm viếng mộ liệt sĩ hoặc di chuyển hài cốt liệt sĩ tại khoản 9 Điều 16. Quy định chế độ đối với vợ/chồng liệt sĩ lấy chồng/ vợ khác tại khoản 10 Điều 16.

Đối với thân nhân của Bà mẹ Việt Nam anh hùng: quy định chế độ trợ cấp một lần đối với thân nhân khi Bà mẹ Việt Nam anh hùng chết mà chưa được hưởng chế độ ưu đãi hoặc đang hưởng chế độ ưu đãi mà chết tại khoản 1 Điều 19.

Chế độ đối với thân nhân của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học: Pháp lệnh đã bổ sung chế độ trợ cấp một lần cho thân nhân khi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học chết hoặc cho thân nhân của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học khi con đẻ của người hoạt động kháng chiến chết tại Điều 31.

 Pháp lệnh đã cụ thể hóa thân nhân của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên chết được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng tại khoản 3 Điều 31. Đồng thời bổ sung trường hợp thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng và trợ cấp nuôi dưỡng hằng tháng khi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên chết tại điểm b khoản 3 Điều 31; bổ sung chế độ bảo hiểm y tế đối với con đẻ tại điểm b khoản 4 Điều 31; chế độ cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cho con đẻ tại khoản 5 Điều 31.

 Về chế độ đối với thân nhân của người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế: Khoản 1 Điều 37 Pháp lệnh quy định chế độ trợ cấp 1 lần quy định tại khi người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế chết mà chưa được hưởng chế độ ưu đãi.

Về chế độ đối với thân nhân của người có công giúp đỡ cách mạng: Pháp lệnh đã bổ sung chế độ trợ cấp 1 lần khi người có công giúp đỡ cách mạng đang hưởng trợ cấp hằng tháng chết hoặc chết mà chưa hưởng chế độ ưu đãi tại khoản 1 Điều 40.

Bên cạnh đó, Pháp lệnh đã bổ sung Chương III về Công trình ghi công liệt sĩ (các Điều 41, 42, 43) và Chương IV về nguồn lực thực hiện ( các Điều 44, 45, 46, 47). Ngoài ra, Pháp lệnh quy định cụ thể trách nhiệm của Chính phủ, sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng./.

Thiều Chiên

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: