Một số giải pháp để hạn chế phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong công tác xử lý vi phạm hành chính

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 là cơ sở pháp lý quan trọng, thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, trong đó có quyền được bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra khi thi hành công vụ. Một trong các lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính theo quy định của Luật là xử lý vi phạm hành chính.

Xử lý vi phạm hành chính là hoạt động có phạm vi rộng, phức tạp, bao trùm nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức. Trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, cán bộ, công chức có thể có sai phạm, thiếu sót dẫn đến khiếu nại, tố cáo làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Theo quy định tại Điều 17 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong công tác xử lý vi phạm hành chính bao gồm 05 trường hợp đó là: (1) Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trái pháp luật; (2) Áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính trái pháp luật; (3) Áp dụng một trong các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính sau đây trái pháp luật: Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng; (4) Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trái pháp luật; (5) Áp dụng một trong các biện pháp xử lý hành chính sau đây trái pháp luật: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng; Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác XLVPHC trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Công tác kiểm tra và xử phạt các tổ chức, cá nhân vi phạm ở một số đơn vị, địa phương chưa được quan tâm đúng mức, chưa được triển khai thường xuyên; chưa đảm bảo quy định về thời gian trong lập biên bản vi phạm hành chính, thời gian chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; biên bản vi phạm hành chính được lập còn một số nội dung sai sót… đã ảnh hưởng đến việc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền cũng như công tác quản lý nhà nước của địa phương. Để hạn chế phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong công tác xử lý vi phạm hành chính, cần lưu ý một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu xử lý vi phạm hành chính, những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức cán bộ, công chức theo quy định pháp luật. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, cán bộ, công chức cần phải trau dồi, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, nắm vững các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 118/2021/NĐ-CP, nghị định xử phạt trong lĩnh vực chuyên ngành và các văn bản khác có liên quan đến lĩnh vực tham mưu để đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phải kịp thời, nghiêm minh, chính xác, đầy đủ, đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, đối tượng theo quy định pháp luật.

Thứ hai, thực hiện tốt hơn công tác dự báo, phòng ngừa các vi phạm, hạn chế thấp nhất các vụ việc có thể xảy ra bồi thường nhà nước. Theo đó, cần chủ động, thường xuyên kiểm tra, rà soát công tác xử phạt vi phạm hành chính tại đơn vị mình và đơn vị trực thuộc, kịp thời phát hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính có sai sót để đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới theo thẩm quyền. Thường xuyên kiểm tra, rà soát các quyết định, hành vi thực thi công vụ trong công tác xử lý vi phạm hành chính có thể dẫn đến vi phạm, phải bồi thường để tổ chức rút kinh nghiệm, phòng tránh; tiếp tục chú trọng công tác phòng ngừa các vi phạm xảy ra trong công tác này, không để phát sinh các vụ việc phải bồi thường nhà nước.

Thứ ba, chú trọng phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong công tác xử lý vi phạm hành chính, không né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Đối với các vụ việc phức tạp hoặc các vụ việc mà người có thẩm quyền đang thụ lý gặp khó khăn, vướng mắc về áp dụng pháp luật, khi lập hồ sơ xử phạt cần kịp thời lấy ý kiến của cơ quan quản lý công tác xử lý vi phạm hành chính tại địa phương và các cơ quan khác có liên quan để xem xét, giải quyết theo quy định, tránh trường hợp xác định sai thẩm quyền, hành vi hết thời hạn, thời hiệu xử lý.

Thứ tư, tăng cường tổ chức bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu xử lý vi phạm hành chính, những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để tránh sai sót trong quá trình tham mưu, nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời nâng cao chất lượng chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan có thẩm quyển cấp trên đối với cơ quan cấp dưới bảo đảm sự thống nhất xuyên suốt trong quá trình thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và các Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật.

Thứ năm, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quy định của pháp luật liên quan đến trách nhiệm và xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Đối với các hồ sơ có sai sót, cần làm rõ trách nhiệm của cá nhân để xử lý kỷ luật theo Nghị định số 19/2020/NĐ-CP ngày 12/02/2020 của Chính phủ về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản liên quan đến xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức./.

                                                                                         Kim Khánh

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: