Một số khó khăn khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến tại tỉnh Hà Tĩnh

 

Xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được đề ra tại Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030, trong đó việc ứng dụng dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) là một trong các mục tiêu[1] quan trọng, góp phần đẩy nhanh quá trình hiện thực hóa Chính phủ điện tử.

Thực hiện các quy định, chỉ đạo của Trung ương, tỉnh Hà Tĩnh cũng đã triển khai nhiều nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh việc thực hiện DVCTT. Trên cơ sở đó, các đơn vị, địa phương đã không ngừng nâng cấp hệ thống dịch vụ công cũng như chất lượng phục vụ nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân. Cổng dịch vụ công tỉnh, các phần mềm dịch vụ công của địa phương thường xuyên được hoàn thiện với nhiều chức năng đáp ứng nhu cầu sử dụng của các tổ chức, cá nhân. Trang thiết bị được cung cấp đầy đủ để cán bộ tiếp nhận và trả kết quả thực hiện, người dân giám sát, tra cứu quá trình giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) của mình và đánh giá sự hài lòng về chất lượng dịch vụ. Nhờ đó, trong những năm qua, số lượng hồ sơ DVCTT trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng.

 

Ảnh: Chi đoàn Sở Tư pháp hỗ trợ người dân thực hiện TTHC tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh

Tuy nhiên, quá trình thực hiện DVCTT trên Cổng dịch vụ công vẫn còn gặp một số khó khăn như sau:

Thứ nhất, khi đăng ký tài khoản trên dịch vụ công yêu cầu số điện thoại chính chủ nên một số trường hợp người dân xác thực thông tin có kết quả không trùng khớp thông tin với nhà mạng thì không đăng ký được tài khoản và phải mất thêm thời gian để liên hệ nhà mạng.

Thứ hai, việc thực hiện quy trình thanh toán trực tuyến qua Cổng dịch vụ công quốc gia còn phức tạp, chưa có nhiều lựa chọn các ngân hàng trung gian thanh toán hoặc phương thức thanh toán khác. Khi xảy ra lỗi, việc hỗ trợ kỹ thuật của các ngân hàng trung gian thanh toán cho các đơn vị cung cấp dịch vụ công trực tuyến chưa kịp thời nên cũng gây chậm trễ đến quá trình xử lý hồ sơ, trả kết quả giải quyết hồ sơ dịch vụ công trực tuyến. Việc thanh toán phí qua nền tảng điện thoại cũng gặp khó khăn hơn so với khi thao tác trên máy tính, do giao diện trên điện thoại nhỏ, trong khi phải nhập một số thông tin như số điện thoại và mật khẩu Smartbanking, mã Capcha nên thực hiện khá lâu.

Thứ ba, giao diện trên tài khoản dịch vụ công chỉ hiển thị số hồ sơ trong mục hồ sơ đã gửi hoặc hồ sơ đang xử lý, không hiển thị số hồ sơ trong mục hồ sơ chờ trả lại hoặc hồ sơ chờ thanh toán nên khi cán bộ yêu cầu thanh toán phí, lệ phí trực tuyến hoặc trả lại hồ sơ thì người dân không biết được hồ sơ của mình đã được yêu cầu thanh toán hoặc đã bị trả lại.

Thứ tư, Cổng dịch vụ công có thiết kế giao diện web cho thiết bị di động, mặc dù có thể nộp được hồ sơ nhưng giao diện trên thiết bị di động vẫn chưa được tối ưu hóa nên khó thao tác hơn so với máy tính.

Thứ năm, mặc dù Cổng dịch vụ công đã xây dựng biểu mẫu tờ khai điện tử để người dân có thể nhập thông tin trực tiếp, tuy nhiên khi xuất thành file word thì còn nhiều lỗi về ngôn ngữ, kỹ thuật trình bày trong tờ khai, bắt buộc người khai phải chỉnh sửa lại mới sử dụng được. Mặt khác, hiện cũng chỉ mới người dân mới có thể xuất được biểu mẫu tờ khai điện tử này còn phía cán bộ tiếp nhận không xuất được file, nên có trường hợp người dân khai trực tiếp biểu mẫu điện tử phải khai lại tờ khai và nộp lại hồ sơ thì cán bộ mới tiếp nhận được.

Thứ sáu, Cổng dịch vụ công có hướng dẫn cho người dân, doanh nghiệp sử dụng DVCTT bằng tài liệu dạng chữ. Tuy nhiên, các hướng dẫn này là chung cho tất cả DVCTT, dài dòng, khó theo dõi, chưa thuận tiện cho người dân khi sử dụng DVCTT cụ thể. Mặc dù đã có hướng dẫn song nhiều người vẫn không biết cách tạo lập tài khoản cũng như nộp hồ sơ, phải thao tác nhiều lần.

Thứ bảy, một số UBND cấp xã chưa cập nhật các thông tin về đường dây nóng, hỗ trợ kỹ thuật, số điện thoại nên khi người dân có vướng mắc khi thực hiện thủ tục hành chính thì chưa liên hệ được trực tiếp với UBND cấp xã đó.

Từ thực tiễn các tồn tại trên, tác giả cho rằng cần thiết phải khắc phục, chỉnh sửa lại các chức năng của Cổng dịch vụ công theo hướng cần chú trọng việc cung cấp thông tin đơn giản, trực quan, dễ hiểu, dễ làm hơn, giúp người dân có thể tự hiểu và tự thực hiện một cách dễ dàng, thuận tiện. Trên Cổng cũng cần cung cấp đầy đủ, đa dạng và nâng cao chất lượng các kênh tương tác, hỗ trợ người dân. UBND cấp xã cần bổ sung thông tin liên hệ đường dây nóng, số điện thoại để người dân có thể liên hệ khi cần thiết và đảm bảo luôn có người trực tối thiểu trong thời gian hành chính để hỗ trợ, giải đáp các câu hỏi của người dùng. Thường xuyên nắm bắt ý kiến của người dân, doanh nghiệp để có những biện pháp cải thiện chất lượng phục vụ và cung cấp dịch vụ công…

Để triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp sử dụng DVCTT của tỉnh trên cả 2 phương diện: tăng tỷ lệ cung cấp DVCTT và tăng tỷ lệ hồ sơ trực tuyến phát sinh, qua đó, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của tỉnh, xây dựng chính quyền số và xã hội số ngày càng toàn diện, ngày 30/5/2023, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 194/KH-UBND về nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp, sử dụng dịch vụ công trực tuyến trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Với các chỉ đạo mạnh mẽ và quyết liệt của UBND tỉnh, cùng với sự chủ động của các đơn vị, địa phương, tin tưởng rằng việc thực hiện DVCTT trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh sẽ đạt được nhiều kết quả cao hơn./.



[1] “Đến năm 2025, 100% người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến được cấp định danh và xác thực điện tử thông suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ thống thông tin của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương; Đến năm 2030, 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động”.

Kim Lân

 

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: