Một số kỹ năng cần thiết của hoà giải viên khi tham gia hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp trong cuộc sống hiện nay

Hiện nay, các mâu thuẫn, tranh chấp trong cuộc sống hàng ngày có thể được giải quyết bằng nhiều phương thức khác nhau như thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án. Có thể nói, hòa giải là một trong những cách thức phổ biến để giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội hiện nay.

Đặc trưng của phương thức giải quyết tranh chấp này là mang tính chất tự nguyện. Kết quả hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào đảm bảo thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hòa giải. Hòa giải có sự tham dự của bên thứ ba độc lập và khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp. Hòa giải không làm ảnh hưởng đến việc các bên sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Hoà giải viên tham gia hoà giải tranh chấp cần tuân thủ tuyệt đối các quy định pháp luật, không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội; phải đảm bảo đặt quyền lợi của các bên chủ thể tham gia hoà giải là trước hết và gắn liền với lợi ích chung. Hòa giải viên phải tôn trọng sự thật khách quan, trung thực, vô tư và đảm bảo bí mật cho các bên tranh chấp. Phương án hòa giải phải có khả năng thi hành cao, hiệu quả, uy tín, thực tế nhất, hạn chế tối đa thiệt hại, tổn thất cho các bên và thiệt hại chung. Trong trường hợp một trong các bên cảm thấy hòa giải viên vi phạm nguyên tắc độc lập và khách quan hoặc có sự thiên vị đối với bên kia thì bên còn lại có quyền yêu cầu thay đổi hòa giải viên hoặc yêu cầu chấm dứt việc hòa giải. Như vậy, để tổ chức cuộc hòa giải diễn ra thuận lợi và thành công, đòi hỏi hòa giải viên phải là người có những kỹ năng cần thiết như:

 Chuẩn bị những hồ sơ, tài liệu cho vụ việc giải quyết tranh chấp. Để đưa ra lời khuyên chính xác, đúng pháp luật, cảm hóa, thuyết phục được các bên trong tranh chấp, hòa giải viên có thể yêu cầu các bên hòa giải cung cấp thêm các thông tin, chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ, việc hòa giải, phản ánh đúng nội dung và diễn biến của vụ việc tranh chấp. Để giải quyết vụ, việc được hiệu quả, hòa giải viên phải tự mình tìm hiểu, thu thập chứng cứ, cần gặp gỡ các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã từng tham gia giúp đỡ giải quyết, gặp người chứng kiến nghe họ trình bày về diễn biến và nội dung vụ, việc mà họ biết được. Khi hòa giải viên thấy chưa đủ cơ sở để tư vấn, đưa ra những giải pháp, cần phải tiến hành xem xét, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, gặp gỡ, tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức và những người có liên quan để tìm hiểu rõ bản chất vụ việc, tránh vội vàng đưa ra những kết luận phiến diện, chủ quan. Sau khi có chứng cứ, tài liệu có liên quan, hòa giải viên cần dành thời gian để đọc, nghiên cứu, đồng thời hình thành luôn giải pháp. Khi chưa thực sự tin tưởng về giải pháp mà mình sẽ đưa ra cho các bên trong tranh chấp thì hòa giải viên không nên vội vàng đưa ra giải pháp đó.

Sau khi hòa giải viên đã chuẩn bị hồ sơ, tài liệu cần thiết thì kỹ năng tiếp nhận, đọc, phân tích, đánh giá hồ sơ sẽ rất quan trọng, nó sẽ đánh giá được mức độ thành công của cuộc hòa giải.

Trong đó, về kỹ năng tiếp nhận thông tin hòa giải viên cần tiếp nhận thông tin từ mọi nguồn cung cấp tuy nhiên phải biết tiếp nhận có chọn lọc, tiếp nhận những thông tin có độ pháp lý đúng, sát hợp với vụ, việc cần giải quyết. Việc tiếp nhận thông tin phải thực sự khách quan, vô tư. Thông thường chủ thể hòa giải chỉ đưa ra những thông tin có lợi cho bên tranh chấp mà họ có liên quan. Vì vậy, hòa giải viên cần khéo léo để nhận được những thông tin, tài liệu chính xác, trung thực.

Hồ sơ, tài liệu do các bên cung cấp cho hòa giải viên có thể rất tràn lan và không đầy đủ nên hòa giải viên khi đọc, phân tích, đánh giá hồ sơ phải chọn lọc, chỉ đọc những tài liệu có liên quan đến vụ việc, những tài liệu không liên quan đến vụ việc có thể bỏ qua. Mặt khác nếu tài liệu nào liên quan và mang tính bản chất về nội dung vụ việc hòa giải thì nên đánh dấu lại để làm lưu ý. Khi đọc hồ sơ, hòa giải viên nên cân nhắc về tính xác thực của hồ sơ vì các bên hòa giải luôn luôn cung cấp những hồ sơ, chứng cứ có lợi cho mình và giấu đi những hồ sơ không có lợi cho mình. Vì vậy, hòa giải viên phải nghiên cứu thật kỹ, xác minh lại tính xác thực của hồ sơ. Trường hợp vụ việc hòa giải phức tạp, hòa giải viên chưa hiểu sâu, thì nên gặp nhờ người có chuyên môn tư vấn cho mình trước khi tư vấn, hòa giải tranh chấp để tránh gây hậu quả, thiệt hại.

Khi lựa chọn cơ sở pháp lý hòa giải viên phải lựa chọn cơ sở pháp lý phù hợp nhất, đúng nhất với vụ việc. Phải cập nhật được những văn bản hiện hành để áp dụng vào vụ việc, tránh sử dụng những văn bản đã hết hiệu lực( trừ trường hợp có quy định khác). Ngoài ra, hòa giải viên cũng cần nghiên cứu thêm những văn bản có liên quan khác để áp dụng vào vụ việc. Trường hợp chưa tìm thấy văn bản cần tìm hoặc nghi ngờ về hiệu lực của văn bản đó, hòa giải viên có thể kiểm tra lại chính xác.

Tổ chức phiên họp hòa giải. Trên thực tế, nếu nói đến quy trình hoà giải diễn ra như thế nào, từng bước hoà giải viên cần chuẩn bị những kỹ năng gì ra làm sao, hoàn toàn không có một mô tip cố định như thủ tục tố tụng. Nhìn chung, khi tiến hành hoà giải, căn cứ vào tính chất vụ việc cũng như tình trạng quan hệ hiện tại giữa hai bên, hoà giải viên trước tiên phải trang bị kỹ năng nắm bắt tâm lý của các bên tranh chấp. Hòa giải viên cần nắm rõ đặc điểm, tâm lý của từng bên cũng như tính chất vụ việc để áp dụng “nghệ thuật” hòa giải phù hợp. Việc thể hiện thái độ khách quan, nhiệt tình nhưng vừa phải đồng thời thể hiện quan điểm vì lợi ích của các bên, với nắm bắt tâm lý là một trong những yếu tố để đạt kết quả trong hòa giải. Hòa giải viên phân tích, giải thích, chỉ ra những hành vi nào các bên được làm và những hành vi nào pháp luật ngăn cấm; hành vi nào phù hợp và không phù hợp với pháp luật, với đạo đức xã hội, nêu rõ hậu quả pháp lý mà các bên phải gánh chịu nếu tiếp tục tranh chấp và đưa ra các phương án giải quyết tranh chấp để các bên tự lựa chọn, quyết định và không áp đặt ý chí của mình đối với các bên tranh chấp hòa giải viên phải trực tiếp trao đổi với từng bên, đề cao lẽ phải, tìm hiểu thêm các nguyên nhân mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh. Dùng uy tín của hòa giải viên để giải thích, thuyết phục, cảm hóa và hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp. Với phương châm kiên trì, bền bỉ hòa giải viên phải đưa ra lời giải đáp, lời khuyên, phương án... động viên các bên tranh chấp tự hòa giải, đi đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Trong một số trường hợp bầu không khí căng thăng, có thể dẫn đến xích mích hòa giải viên cần can ngăn kịp thời, dàn xếp, làm dịu tình hình căng thẳng giữa các bên. Trong trường hợp cần thiết phải thông báo cho người có thẩm quyền, công an cấp xã hoặc cảnh sát khu vực để can thiệp. Ngoài ra, các Hòa giải viên phải tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các cá nhân, tổ chức có liên quan đến vụ việc hòa giải hoặc có ảnh hưởng đến các bên tranh chấp.

Khi phiên hòa giải kết thúc, hòa giải viên phải tiến hành lập biên bản hòa giải. Trường hợp hòa giải thành thì lập biên bản hòa giải thành có chữ ký của hòa giải viên và chữ ký của các bên trong vụ việc hòa giải. Hòa giải viên cần tiếp tục quan tâm, giúp đỡ, nhắc nhở các bên tự nguyện thực hiện thỏa thuận của mình, tạo điều kiện để họ thực hiện tốt cam kết đó. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trường hợp hòa giải thành mà không thực hiện thì lập biên bản để làm cơ sở cho cấp trên giải giải tranh chấp theo thẩm quyền, bởi vì kết quả hòa giải không có chế tài thực hiện. Ngược lại, nếu vụ, việc hòa giải không thành và việc tiếp tục hòa giải không thể đạt kết quả, thì hòa giải viên vẫn phải lập biên bản ghi rõ lý do hòa giải không thành và yêu cầu 2 bên hòa giải ký vào sau đó hướng dẫn cho các bên thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp.

Có thể nói, hoà giải là quá trình các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp với sự trợ giúp của hòa giải viên. Vai trò của hòa giải viên trong quá trình hòa giải được thể hiện ở việc khuyến khích và trợ giúp các bên tìm ra một giải pháp, phương án mang tính thực tế mà tất cả các bên liên quan đều có thể chấp nhận sau khi xem xét, nghiên cứu những lợi ích và nhu cầu của họ. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp mềm dẻo, giúp nâng cao các giá trị đạo đức trong đời sống sinh họat xã hội, góp phần làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Tăng tính tích cực của xã hội lấy đối thọai thay cho đối đầu, nâng cao y thức tự giác của các bên tranh chấp, góp phần xây dựng xã hội văn minh và phát triển.

(Ảnh: Nguồn Internet)

Võ Quốc Hoàng

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: