Một số nội dung cưỡng chế trong xử phạt vi phạm hành chính

Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được sửa đổi, bô sung năm 2020 thì mọi hành vi vi phạm hành chính phải được phát hiện và xử lý kịp thời. Tùy vào hành vi vi phạm hành chính sẽ có các chế tài xử lý phù hợp như hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả. Trong thực tiễn thì không phải tất cả các quyết định xử phạt sau khi ban hành đều được người vi phạm chấp hành nghiêm túc mà phải sử dụng đến các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt.

Hiện nay theo Luật xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2023 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì có các biện pháp cưỡng chế như: (i) khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập; (ii) khấu trừ tiền từ tài khoản; (iii) kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; (iiii) thu tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế do cá nhân, tổ chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản; (iiiii) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả. Mặc dù luật và nghị định đã quy định cụ thể về việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng trong quá trình áp dụng những người có thẩm quyền phải tuân thủ các quy định của pháp luật để không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, để thực hiện đúng các quy định thì quá trình thực hiện cưỡng chế cần phải quan tâm các nội dung sau:

          Thứ nhất, về thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế: các chức danh được quy định tại Điều 87 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được sửa đổi bởi Khoản 44 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 thì có thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế. Theo đó thì các chức danh này có thể ủy quyền cho người khác thực hiện việc ban hành quyết định cưỡng chế dựa trên quyết định giao quyền. Việc quy định này đã tạo ra sự “linh động” trong quá trình thi hành pháp luật cho các chức danh có thẩm quyền, bởi trong quy trình xử lý vi phạm hành chính việc tuân thủ về trình tự thủ tục hết sức chặt chẽ, đặc biệt về mặt thời hạn vì trong thực tiễn không phải lúc nào các chức danh này cũng có mặt để xử lý kịp thời các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của mình.

          Thứ hai, về nguyên tắc áp dụng các biện pháp cưỡng chế: (i) Việc cưỡng chế chỉ được thực hiện khi có quyết định cưỡng chế bằng văn bản của người có thẩm quyền; (ii) Việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ, điều kiện thi hành quyết định cưỡng chế và tình hình thực tế ở địa phương; (iii) Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo thứ tự Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm; Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do cá nhân, tổ chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản. Theo đó, các biện pháp cưỡng chế thu tiền chỉ áp dụng các biện pháp tiếp theo khi không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó hoặc đã áp dụng nhưng chưa thu đủ số tiền bị cưỡng chế theo quyết định cưỡng chế. Chính vì vậy, trong quá trình áp dụng các biện pháp cưỡng chế thu tiền, người có thẩm quyền không được phép tùy tiện lựa chọn hình thức mà phải thực hiện theo thứ tự nhằm đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người vi phạm.

          Thứ ba, về thời hạn ban hành và thi hành quyết định cưỡng chế: Hiện nay luật và Nghị định số 166/2013/NĐ-CP không có quy đinh cụ thể về thời hạn ban hành quyết định cưỡng chế. Đối với việc cưỡng chế thu tiền xử phạt tại khoản 1 Điều 78 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được sửa đổi bổ sung tại khoản 39 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 chỉ quy định nếu quá thời hạn thi hành quyết định xử phạt sẽ bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt và cứ mỗi ngày chậm nộp tiền phạt thì cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp thêm 0,05% tính trên tổng số tiền phạt chưa nộp. Quy định đi theo hướng mở, do đó quá trình thực thi người có thẩm quyền thường không ban hành quyết định cưỡng chế thi hành ngay sau khi hết thời hạn ghi trong quyết định mà kéo dài việc này, vì vậy cũng cần phải xem xét việc quy định thời hạn ban hành quyết định cưỡng chế tránh trường hợp tùy tiện trong áp dụng pháp luật.

          Mặc dù pháp luật không quy định về thời hạn ban hành quyết định cưỡng chế nhưng tại điều 88 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được sửa đổi bổ sung tại điểm b khoản 45 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 quy định về thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế được tính kể từ ngày ra quyết định cưỡng chế cho đến thời điểm chấm dứt hiệu lực thi hành của quyết định xử phạt vi phạm hành chính; quá thời hạn này thì không thi hành quyết định, cưỡng chế đó. Do vậy, khi hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt thì người có thẩm quyền không được phép ban hành quyết định cưỡng chế để thu tiền phạt. Việc không quy định thời hạn ban hành quyết định cưỡng chế nhưng vẫn quy định về thời hạn thi hành quyết định cưỡng chế nên đòi hỏi người có thẩm quyền buộc phải xem xét để ban hành quyết định cưỡng chế phù hợp nhằm buộc người vi phạm phải thực hiện trách nhiệm của mình.

Riêng đối với quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả khi hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt thì vẫn phải cưỡng chế tịch thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Do vậy, khi hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt thì người có thẩm quyền vẫn phải ban hành quyết định cưỡng chế tịch thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

Thứ tư, về trách nhiệm tổ chức thi hành: Tại Điều 6 Nghị định số 166/2013/NĐ-CP thì người ra quyết định cưỡng chế có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt của mình và của cấp dưới. Đối với quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân ra quyết định cưỡng chế căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân để phân công cơ quan chủ trì tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế. Việc phân công cơ quan chủ trì phải trên nguyên tắc vụ việc thuộc lĩnh vực chuyên môn của cơ quan nào thì giao cơ quan đó chủ trì; trường hợp vụ việc liên quan đến nhiều cơ quan thì căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết định giao cho một cơ quan chủ trì tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế. Trong thực tiễn thi hành không ít vụ việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp khi phân công cơ quan chủ trì thực hiện đã không dựa trên nguyên tắc vụ việc thuộc lĩnh vực chuyên môn của cơ quan nào thì giao cơ quan đó chủ trì. Việc giao cho cơ quan không có chuyên môn thực hiện có thể dẫn đến hiệu quả thi hành không cao, nhưng một hệ lụy lớn đó là vi phạm về trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế có thể dẫn đến việc khiếu nại, khởi kiện của người dân. Chính vì vậy, quá trình thi hành cưỡng chế buộc người ban hành quyết định và các tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.

Trong quá trình thi hành quyết định xử phạt về góc độ quản lý Nhà nước luôn mong muốn việc vi phạm hành chính được xử lý kịp thời, người vi phạm chấp hành nghiêm túc, nhưng khi các đối tượng không tự nguyện thi hành thì các cơ quan Nhà nước phải sử dụng các chế tài để cưỡng chế thực hiện. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cần tuân thủ nghiêm ngặt về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn và thời hiệu để đảm bảo áp dụng đúng quy định pháp luật./.

Bùi Cẩm Thạch

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: