Một số ý kiến góp ý dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi)

Vừa qua, dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) tiếp tục được Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội phối hợp với Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức Hội thảo lấy ý kiến góp ý. Đối với dự thảo lần này, xin có một số ý kiến góp ý như sau:

1. Điểm h Khoản 1 Điều 7 quy định cấm tổ chức hành nghề công chứng quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về công chứng viên và tổ chức mình. Theo Luật Quảng cáo 2012 thì Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ … Hiện nay, Nghị quyết số 172/NQ-CP ngày 19/11/2020 của Chính phủ về chính sách phát triển nghề công chứng đang khuyến khích cá nhân, tổ chức thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch để bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, góp phần giảm tải công việc của cơ quan hành chính, giảm biên chế và chi ngân sách nhà nước. Việc giới thiệu về tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên góp phần giúp tổ chức, cá nhân hiểu biết nhiều hơn về hoạt động công chứng và tổ chức hành nghề công chứng; đặc biệt là ở các địa bàn có tổ chức hành nghề công chứng mới thành lập; tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu thông tin về tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét bỏ quy định này.

2. Khoản 3 Điều 12 dự thảo quy định: “Người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà có quyết định của tòa án về việc không được hành nghề công chứng”. Đề nghị bỏ cụm từ “mà có quyết định của Tòa án về việc không được hành nghề công chứng” vì những người thuộc các trường hợp nêu trên đương nhiên không được hành nghề công chứng mà không cần phải có quyết định của Tòa án.

3. Khoản 1 Điều 37 dự thảo quy định công chứng viên phải xuất trình Thẻ công chứng viên khi hành nghề công chứng. Tuy nhiên, để phù hợp hơn với thực tiễn, đề nghị quy định công chứng viên phải đeo thẻ công chứng viên khi hành nghề công chứng.

4. Tại Điều 40 dự thảo, đề nghị bỏ quy định tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên có chức năng hướng dẫn nghiệp vụ cho hội viên để phù hợp với chức năng của cơ quan quản lý nhà nước về công chứng quy định tại Điều 71 dự thảo.

5. Điều 41 dự thảo quy định thủ tục công chứng, theo đó, công chứng viên kiểm tra các giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng (Khoản 2), hướng dẫn, giải thích cho người yêu cầu công chứng, kiểm tra dự thảo giao dịch, người yêu cầu công chứng đọc lại dự thảo và ký vào từng trang của giao dịch, sau đó công chứng viên mới yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản chính của các giấy tờ. Do đó, để đảm bảo tính logic của quy trình, đề nghị đưa nội dung xuất trình bản chính các giấy tờ tại Khoản 7 thực hiện đồng thời với việc kiểm tra các giấy tờ tại Khoản 2.

6. Khoản 3 Điều 48 quy định Người phiên dịch do người yêu cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tuy nhiên, đối với trường hợp người yêu cầu công chứng không mời được người phiên dịch thì đề nghị xem xét bổ sung quy định Công chứng viên chỉ định người phiên dịch là cộng tác viên dịch thuật của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện việc phiên dịch.

7. Luật Công chứng hiện nay và Dự thảo đều không có quy định giới hạn độ tuổi của công chứng viên nên thực tế có nhiều trường hợp công chứng viên tuổi đã cao (trên 70 tuổi, có trường gần 80 tuổi) vẫn hành nghề công chứng. Đây là một bất cập bởi vì hoạt động công chứng ngoài đòi hỏi về sức khỏe, sự minh mẫn, chuyên môn nghiệp vụ còn yêu cầu phải có sự nghiên cứu, cập nhật pháp luật thường xuyên cũng như nắm bắt các vấn đề phát sinh trong xã hội có liên quan đến công chứng. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định về độ tuổi tối đa của công chứng viên.

8. Tại Khoản 3 Điều 51 về việc sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng, do việc sửa lỗi không làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của người tham gia giao dịch, công chứng viên có trách nhiệm sửa lỗi kỹ thuật đối với các bản chính của văn bản công chứng, nên đề nghị không quy định công chứng viên phải thông báo bằng văn bản mà chỉ cần thông báo cho những người tham gia giao dịch,  đồng thời thống nhất với việc thông báo trong trường hợp công chứng hợp đồng ủy quyền quy định tại Khoản 3 Điều 56.

9. Tại Khoản 3 Điều 56, đề nghị sửa cụm từ sửa lỗi kỹ thuật theo quy định tại Khoản 3 Điều 50 của Luật này thành sửa lỗi kỹ thuật theo quy định tại Khoản 3 Điều 51 của Luật này

10. Khoản 2 Điều 64 dự thảo quy định UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng của địa phương. Theo đó, mỗi tỉnh sẽ có một cơ sở dữ liệu công chứng, một quy chế sử dụng, một cách triển khai khác nhau với quy mô đầu tư, cách thức quản lý, khai thác nền tảng công nghệ và chức năng, tiêu chuẩn của cơ sở dữ liệu khác nhau. Mỗi tỉnh đều phải lập dự án và thực hiện từ bước khảo sát, thiết kế, lập trình, triển khai ứng dụng, đào tạo và duy trì bộ máy vận hành cơ sở dữ liệu. Điều này tạo ra một sự lãng phí lớn, bởi thay vì chỉ xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu áp dụng thống nhất thì phải thiết kế tới 63 hệ thống khác nhau tại mỗi tỉnh, thành. Mặt khác, việc công chứng một số giao dịch về bất động sản quy định tại Điều 43 dự thảo và các giao dịch về động sản không bị giới hạn trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tổ chức hành nghề công chứng. Do đó, nhằm ngăn chặn và cảnh báo rủi ro trong hoạt động công chứng, đề nghị xem xét quy định Bộ Tư pháp xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng áp dụng chung, thống nhất trên toàn quốc./.

Hạnh Ngân

 

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Để đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình ngày 31/12/2021 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2021/NĐ-CP để xử lý các hành vi vi phạm, quá trình thi hành Nghị định đã góp phần hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, tạo ra công cụ pháp lý cho các cơ quan, người có thẩm quyền thi hành tốt công vụ. Tuy nhiên, một số quy định của nghị định thiếu cụ thể, rõ ràng, trùng lặp, mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác dẫn đến quá trình áp dụng người thi hành công vụ lúng túng gặp không ít khó khăn, cụ thể:
Mặc dù được quy định tại Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, tuy nhiên khái niệm về quyền hưởng dụng hiện nay vẫn đang còn tương đối mơ hồ với nhiều người dân. Điều này phần nào ảnh hưởng tới việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Tuy nhiên, không vì vậy mà cho rằng quyền hưởng dụng không quan trọng. Thực tế, khi xem xét cụ thể về quyền hưởng dụng, có thể thấy rằng đây là một quyền năng có ý nghĩa lớn về mặt xã hội và kinh tế trong việc khai thác, sử dụng tài sản. Quyền hưởng dụng là quy định mới được bổ sung tại BLDS năm 2015 mà trước đây BLDS năm 2005 không quy định, mang tính chất đột phá trong giao dịch dân sự ngày nay.
Luật Đất đai 2024, được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025. Luật có nhiều điểm mới, phù hợp với thực tiễn quản lý và sử dụng đất, trong đó có những tác động tích cực đến lĩnh vực nông nghiệp, tạo động lực thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển theo hướng ổn định, bền vững…
Thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 và Nghị định số 98/2022/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, ngày 29 tháng 12 năm 2023 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 11/2023/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng đối với ngành Tư pháp. Theo đó, Thông tư này quy định chi tiết thi hành khoản 4 Điều 24, khoản 3 Điều 26, khoản 3 Điều 27, khoản 3 Điều 28, khoản 6 Điều 74, khoản 2 Điều 75, khoản 6 Điều 84 của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 và áp dụng đối với tập thể, cá nhân được xác định cụ thể trong các phong trào thi đua; tập thể, cá nhân thực hiện nhiệm vụ liên quan đến các lĩnh vực công tác của ngành Tư pháp; tập thể, cá nhân có đóng góp vào sự phát triển của Bộ, ngành Tư pháp.
Ngày 25/04/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 343/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Kể từ ngày 01/01/2022, công tác này xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được thực hiện theo Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg ngày 22/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 09/2021/TT-BTP ngày 15/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Qua 02 năm thực hiện các văn bản này, công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã đạt một số kết quả đáng ghi nhận.