Sự khác nhau giữa 2 hoạt động “Công chứng” và “Chứng thực”

Có thể thấy, “công chứng” và “chứng thực” là 2 thuật ngữ thường xuyên xuất hiện cùng nhau trong rất nhiều các văn bản pháp luật.

Pháp luật có quy định, trong một số trường hợp nhất định hợp đồng giao dịch bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực thì mới có giá trị pháp lý và cho phép người dân được lựa chọn giữa 2 hình thức hoặc là công chứng hoặc là chứng thực. Chính vì sự xuất hiện đồng thời và song hành với nhau cũng như tỷ lệ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế cho nên một số bộ phận không nhỏ người dân hoặc xem hoạt động công chứng và chứng thực là một hoặc không nhận biết và hiểu rõ được sự khác nhau giữa 2 hoạt động nói trên, dẫn tới nhầm lẫn, không hiểu hết được vai trò và ý nghĩa của chúng trong thực tiễn để lại những hậu quả đáng tiếc về tính an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao kết.

* Về bản chất của chứng thực hợp đồng giao dịch và công chứng hợp đồng giao dịch

Có thế thấy, pháp luật quy định khá rõ ràng về 2 hình thức nêu trên. Cụ thể hóa bằng việc hoạt động công chứng cơ bản được thực hiện theo Luật Công chứng năm 2014 còn việc chứng thực hoạt động trên cơ sở Nghị định 23/2015/NĐ-CP của chính phủ về về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.

Theo đó, quy định tại khoản 1 điều 2 Luật công chứng 2014 thì Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”, còn tại khoản 4 điều 2 nghị định 23/2015/NĐ-CP thì Chứng thực hợp đồng, giao dịch là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch”.

Như vậy, qua 2 khái niệm trên có thể thấy công chứng và chứng thực là 2 việc hoàn toàn khác nhau. Khác nhau đầu tiên đó chính là chủ thể thực hiện hoạt động. Theo đó, công chứng các hợp đồng giao dịch là hoạt động nghề nghiệp thường xuyên, liên tục, được thực hiện bởi các công chứng viên tại các tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước. Trong khi đó, chủ thể thực hiện hoạt động chứng thực lại được thực hiện bởi Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Tư pháp hoặc Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã.

* Tính chịu trách nhiệm pháp lý trong hoạt động “công chứng” cao hơn hoạt động “chứng thực.

Mặc dù pháp luật quy định giá trị pháp lý của văn bản công chứng (sản phẩm nghề nghiệp của công chứng viên) và văn bản chứng thực là ngang nhau. Tuy nhiên tính chịu trách nhiệm của công chứng viên đối với văn bản công chứng lại cao hơn nhiều so với người thực hiện chứng thực đối với văn bản chứng thực. Công chứng viên luôn phải chịu trách nhiệm trước người yêu cầu công chứng và trước pháp luật về cả mặt hình thức lẫn nội dung của hợp đồng giao dịch mà mình chứng nhận. Tính hình thức bao gồm như ý chí tự nguyện, chữ ký, điểm chỉ, năng lực hành vi dân sự, thời gian địa điểm giao kết hợp đồng giao dịch của người yêu cầu công chứng. Còn tính nội dung thể hiện qua việc công chứng viên cần phải đảm bảo tính xác thực và tính hợp pháp (không vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã hội) của nội dung hợp đồng giao dịch. Trong khi, hoạt động chứng thực lại chỉ là sự xác nhận của chủ thể thực hiện về tính hình thức chứ không xác nhận về mặt nội dung, không xem xét hay bảo đảm rằng nội dung của hợp đồng có thực tế hay đúng pháp luật hay không. Các bên giao kết trong văn bản chứng thực phải hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về nội dung hợp đồng giao dịch đó. Vì vậy, mặc dù pháp luật đều thừa nhận giá trị pháp lý giữa 2 hoạt động là như nhau, song xét về bản chất như đã phân tích thì có thể thấy, tính an toàn, đảm bảo về mặt pháp lý cho các bên giao kết đối với hợp đồng giao dịch được công chứng ở mức độ cao hơn so với được chứng thực. Điều này cũng được thể hiện ở vai trò của văn bản công chứng ngoài đảm bảo tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng giao dịch còn được xem là chứng cứ, những tình tiết sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh trừ trường hợp bị tòa án tuyên bố vô hiệu. Trong khi văn bản chứng thực không phải là dạng chứng cứ mà chỉ là nguồn chứng cứ để các cơ quan có liên quan xem xét nếu xảy ra tranh chấp.

* Trình tự thực hiện và tiền phí công chứng chứng thực.

 Trình tự thủ tục thực hiện chứng thực được quy định tại điều 36 nghị định 23/2015/NĐ-CP. Trong khi trình tự thực hiện công chứng hơp đồng giao dịch được thực hiện theo điều 40, 41 Luật Công chứng 2014. Nhìn chung thủ tục thực hiện của cả 2 tương đối giống nhau, đều cần 1 bộ hồ sơ, người thực hiện chứng thực, công chứng viên kiêm tra hồ sơ dự thảo, ký tên và ghi lời chứng. Tuy nhiên, thực tế, bởi lẽ công chứng viên phải chứng nhận cả nội dung của hợp đồng giao dịch nên thường thì quy trình thực hiện thủ tục công chứng phức tạp và chặt chẽ hơn. Cụ thể, khi kiểm tra hồ sơ, công chứng viên phải giải thích để người yêu cầu công chứng hiểu rõ nội dung của hợp đồng giao dịch, quyền và nghĩa vụ phát sinh, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự đó.

Đối với hợp đồng giao dịch được chứng thực, việc thực hiện thu phí theo thông tư 226/2016/BTC ban hành ngày 11/11/2016. Đối với hợp đồng giao dịch được công chứng, việc thực hiện thu phí theo thông tư 257/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016. Nhìn chung khách hàng phải thanh toán tiền phí công chứng nhiều hơn so với chứng thực. Vì vậy trên thực tế thay vì đến tổ chức hành nghề công chứng để thực hiện công chứng thì vẫn còn nhiều người dân vẫn lựa chọn chứng thực để có thể giảm bớt các chi phí, đơn giản các thủ tục mà không quan tâm tới việc tính an toàn pháp lý có được đảm bảo hay không dù cho hợp đồng giao dịch có tiềm ẩn những rủi ro cao.

Hiện nay, sự phát triển của công nghệ dẫn tới tình trạng vấn nạn giấy tờ giả trong các giao dịch dân sự ngày càng tinh vi, khó phát hiện cũng như những cách thức lừa đảo đa dạng hơn đặc biệt là đối với những giao dịch có giá trị lớn như bất động sản.... Chính vì thế, người dân cần thận trọng trong các giao dịch cũng như việc lựa chọn giữa hình thức công chứng hay chứng thực để có thể đảm bảo tính an toàn nhất tránh tranh chấp hay thiệt hại xảy ra.

Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật để người dân có thể tiếp cận, nhận thức và phân biệt được rạch ròi giữa công chứng và chứng thực là rất quan trọng trên thực tế. Từ đó người dân có thể bảo vệ mình bằng cách lựa chọn giữa hình thức công chứng hay chứng thực sao cho phù hợp với giao dịch cần xác lập. Có như vậy việc công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng và việc chứng thực tại các phòng Tư pháp, UBND cấp xã ... đều đảm bảo tính pháp lý an toàn cho người dân.

                                                                             Văn Tiến

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: