Tăng cường hoạt động đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức.

 

 Theo khoản 1 Điều 8 Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính thì ở địa phương thủ tục hành chính phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Như vậy, theo quy định của Nghị định này thì chỉ có UBND tỉnh mới quy định về thủ tục hành chính. Tuy nhiên, đến Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 của Chính phủ về sửa đổi Nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính đã sửa đổi quy định này theo hướng “Thủ tục hành chính phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật theo đúng thẩm quyền được quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

          Trước đây, thực hiện quy định trên thì UBND tỉnh vẫn quy định thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, cơ quan được phân công chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính đã thực hiện tổ chức đánh giá tác động của quy định về thủ tục hành chính theo theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-BTP ngày 24/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn việc đánh giá tác động của thủ tục hành chính và rà soát, đánh giá thủ tục hành chính. Việc đánh giá thủ tục hành chính cơ bản đã đi vào nề nếp, được cơ quan soạn thảo thực hiện tương đối nghiêm túc theo quy định. Các văn bản có quy định thủ tục hành chính đều được cơ quan soạn thảo đánh giá trong giai đoạn dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thành trước khi gửi Sở Tư pháp thẩm định.

          Nhưng đến Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 tại điều 14 quy định về các hành vi bị cấm trong đó có hành vi “Quy định thủ tục hành chính trong thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã, trừ trường hợp được giao trong luật”. Do đó, thời gian từ 2016-2020 địa phương vướng mắc trong thực hiện quy định này. Bởi vì, thưc tiễn trong một số trường hợp vẫn cần thiết phải có thủ tục hành chính để thực hiện. HĐND tỉnh ban hành một số Nghị quyết quy định về chính sách đặc thù để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, việc cấm quy định thủ tục hành chính trong Nghị quyết của HĐND tỉnh dẫn đến vướng mắc đó là nếu thực hiện quy định này thì khi chính sách được ban hành lại không có các thủ tục hành chính để thực hiện. Vì vậy, trong giai đoạn không có các văn bản quy phạm pháp luật nào của HĐND, UBND được ban hành có quy định về thủ tục hành chính nên nhiệm vụ đánh giá tác động của thủ tục hành chính không được triển khai thực hiện. Cán bộ làm công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh bị hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ này do không được thực hành trong thực tiễn.

          Hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Ban hành văn quy phạm pháp luật đã sữa đổi theo hướng trường hợp cần thiết thì đối với Nghị quyết Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật (Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương) được phép quy định thủ tục hành chính. Thực hiện quy định này, thời gian qua HĐND tỉnh đã ban hành các thủ tục hành chính trong các lĩnh vực như: nông nghiệp và phát triển nông thôn, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa thể thao và du lịch,…Tuy nhiên, việc cơ quan soạn thảo thực hiên đánh giá tác động thủ tục hành chính vẫn còn nhiều hạn chế, lúng túng, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân như đã nêu ở trên.

          Thời gian tới, các đơn vị được giao chủ trì soạn thảo văn bản QPPL có quy định thủ tục hành chính cần tăng cường hoạt động đánh giá tác động của thủ tục hành chính theo quy định tại Thông tư số 03/2022/TT-BTP ngày 10/02/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn việc đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (thay thế Thông tư số 07/2014/TT-BTP) qua đó đảm bảo cho các thủ tục hành chính sau khi được ban hành đơn giản, dễ thực hiện, giảm thiếu các chi phí phát sinh trong người dân khi thực hiện thủ tục hành chính./.

 

 Hải Giang

 

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Ngày 23/5/2024, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Quy định gồm 4 chương, 12 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày ký.
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (Luật Các TCTD) gồm 15 Chương và 210 Điều với nhiều quy định mới so với hiện nay. Đáng chú ý là Luật này đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Trong đó có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thời gian qua, công tác dân vận chính quyền tại cơ quan Sở Tư pháp đã được thực hiện tốt, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của ngành, của tỉnh. Thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 03/CT-UBND ngày 24/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh và các văn bản có liên quan về công tác dân vận chính quyền trong tình hình mới, tập thể Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ bằng nhiều hình thức như: Lồng ghép vào các Chương trình, Kế hoạch của công tác xây dựng Đảng, chuyên môn, đoàn thể; quán triệt, phổ biến các văn bản về công tác dân vận chính quyền, công tác dân chủ ở cơ quan bằng hình thức phù hợp. Trên cơ sở đó, các phòng, Trung tâm thuộc Sở đã chỉ đạo đội ngũ công chức, viên chức trong đơn vị mình thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc thực hiện công tác dân vận chính quyền gắn với việc cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ trong cán bộ, công chức, viên chức đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng khối đại đoàn kết nhất trí từ trong Đảng đến quần chúng, xây dựng sự đồng thuận trong từng đơn vị. Tổ chức Đảng, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở. Theo định kỳ tổ chức họp bằng các hình thức phù hợp để rà soát, đánh giá lại kết quả, đánh giá hạn chế, khó khăn và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Nhờ bám nắm các văn bản của Trung ương, các văn bản chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, của Ban chỉ đạo thực hiện công tác dân chủ của tỉnh và sự hướng dẫn của Sở Nội vụ nên nhiệm vụ này được triển khai thuận lợi, đảm bảo tính đồng bộ, có hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, “Tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển. Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên và nhân tạo. Các dạng tích tụ nước tự nhiên bao gồm sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm, phá, các tầng chứa nước dưới đất và các dạng tích tụ nước khác được hình thành tự nhiên. Các dạng tích tụ nước nhân tạo bao gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi, sông, kênh, mương, rạch, hồ, ao, đầm và các dạng tích tụ nước khác do con người tạo ra…Nước dưới đất là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất ở đất liền, hải đảo, dưới đáy biển”.
Việc xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) để thay thế cho Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa thật sự quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động công chứng, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững. Thời gian qua, dự án tiếp tục nhận được sự quan tâm, cho ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án Luật. Đối với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, chúng tôi tiếp tục có một số ý kiến góp ý như sau: