Cần tiếp tục hoàn thiện những quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội, vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trong dự thảo luật đất đai 2023

Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của quốc gia, là một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay việc phải xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ sở hạ tầng,…đòi hỏi Nhà nước phải thu hồi nhiều diện tích đất ở, đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp... Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp về chỗ ở của các hộ gia đình cá nhân sử dụng đất ở bị thu hồi, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có nhiều quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cho thấy các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư còn có những bất cập, hạn chế vướng mắc nhất định. Do đó đặt ra yêu cầu phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2023.

Qua nghiên cứu cho thấy các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong dự thảo Luật Đất đai năm 2023 về cơ bản đã phù hợp với thực tiễn bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên để các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được đầy đủ, phù hợp, có tính khả thi hơn, cần phải tiếp tục sửa đổi bổ sung và hoàn thiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất, các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất:

Trong bối cảnh hiện nay, quyền sử dụng đất được xem như một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt, do đó, khi Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất để phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh... thì phải bồi thường cho họ. Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã có những bổ sung cần thiết trong quy định về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nhằm đảm bảo việc bồi thường được phù hợp, kịp thời, đảm bảo quyền lợi của người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, một số nội dung còn cần tiếp tục phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung như:

- Tại Điều 89 quy định: "Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất", theo chúng tôi tên của điều luật này nên cắt bỏ hai từ "về đất" để người đọc và thực hiện không hiểu lầm là khi Nhà nước thu hồi đất thì sẽ được bồi thường "về đất". Đặc biệt các nội dung trong điều luật này đều thể hiện các nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, chứ không phải thể hiện nguyên tắc bồi thường "về đất". Do đó nếu để tên như Điều 89 thì giữa tên và nội dung điều luật không phù hợp nhau. Vì vậy, theo chúng tôi nên sửa lại: "Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất". Tại điều này đề nghị bổ sung thêm nguyên tắc: "Khi bồi thường phải đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, chủ đầu tư và người sử dụng đất". Bởi vì trong thời gian qua, việc bồi thường giá trị quyền sử dụng đất, nhất là đất nông nghiệp rất thấp, vì vậy người sử dụng đất bị thu hồi không chịu trả lại đất và khiếu kiện lên nhiều cấp và khiếu kiện kéo dài, có nơi đã trở thành "điểm nóng". Đặc biệt tại khoản 2 Điều 89 có quy định: "Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo cho người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ". Việc quy định "phải đảm bảo thu nhập bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ" cho người có đất bị thu hồi là không có tính khả thi, không thể thực hiện được trong thực tế, bởi vì việc thu nhập tốt hay xấu phụ thuộc rất lớn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của người có đất bị thu hồi khi đến nơi ở mới. Quy định như trên có thể tạo căn cứ cho người có đất bị thu hồi đi khiếu kiện, vì họ cho rằng việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không bảo đảm "thu nhập" tốt hơn nơi ở cũ; quy định nêu trên cũng sẽ gây khó khăn cho công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng của các cơ quan quản lý nhà nước.

- Tại Điều 93: "Bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của các tổ chức kinh tế" ở khoản 1 có quy định: "Tổ chức kinh tế sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất (trả tiền thuê đất một lần) hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mà bị thu hồi thì sẽ được "Nhà nước bồi thường về đất". Quy định này chưa phù hợp với thực tế, có thể gây khó khăn cho công tác bồi thường, vì ở một số địa phương không còn đất nông nghiệp để bồi thường thì giải quyết bằng cách nào? Vì vậy, theo chúng tôi nên sửa lại "Nhà nước sẽ bồi thường về đất, nếu địa phương còn có quỹ đất nông nghiệp hoặc bồi thường bằng tiền". Nếu sửa lại như vậy thì điều luật mới có tính khả thi, tạo thuận lợi cho việc bồi thường giải phóng mặt bằng.

Thứ hai, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về hỗ trợ

- Tại điểm đ khoản 2 Điều 104 về các khoản hỗ trợ có quy định "Hỗ trợ khác" , quy định này viết rất đơn giản, không chặt chẽ. Hỗ trợ khác là hỗ trợ gì? Vì vậy, để điều luật chặt chẽ, dễ hiểu, dễ thực hiện, không có sự tranh cãi. Theo chúng tôi, điểm đ khoản 2 Điều 104 nên sửa lại "Hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật" như vậy sẽ đảm bảo sự rõ ràng, tường minh, chặt chẽ, khoa học của quy định.

- Cần phân biệt rõ hỗ trợ hay thiệt hại để được bồi thường, thiệt hại về đất là dạng thiệt hại phổ biến nhất, phần lớn các tranh chấp, khiếu nại liên quan đến việc bồi thường thiệt hại về đất. Thiệt hại về đất không đơn thuần chỉ là thiệt hại về giá trị quyền sử dụng đất mà thiệt hại này thể hiện ở các khía cạnh như: Thiệt hại do mất hoặc bị giảm không gian sống, sinh hoạt và nơi ở; thiệt hại do mất tư liệu sản xuất gắn liền với việc thu hồi đất nông nghiệp; thiệt hại do mất địa điểm kinh doanh... Khi bị thu hồi đất, người sử dụng đất bị mất tư liệu sản xuất, mất địa điểm kinh doanh, gây ra tình trạng mất việc làm, thu nhập bị mất hoặc giảm sút. Đây là những thiệt hại thực tế mà người có đất bị thu hồi và gia đình của họ phải gánh chịu do hậu quả trực tiếp của việc thu hồi đất. Tuy nhiên, theo các quy định hiện hành, trường hợp người bị thu hồi đất mất ổn định cuộc sống, sản xuất bị đình trệ, mất việc làm, thu nhập bị mất hoặc giảm sút… không được xác định là thiệt hại. Vì thế, Nhà nước không bồi thường mà tùy trường hợp được xem xét hỗ trợ, bao gồm: (i) Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; (ii) Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Những quy định này tiếp tục được duy trì tại Điều 104 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và tác giả cho rằng, đây là thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra nên trong trường hợp đất đủ điều kiện được bồi thường thì Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho người sử dụng đất có đất bị thu hồi chứ không nên xem đó như một khoản hỗ trợ, có tính chất “ban phát”. Bởi vì, những thiệt hại nêu trên là hậu quả trực tiếp do thu hồi đất gây ra mà không phải do lỗi của người sử dụng đất.

Thứ ba, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về tái định cư

- Tại Điều 106 về “lập và thực hiện dự án tái định cư”, nên bổ sung thêm một điều khoản nữa: “phải tiến hành điều tra, khảo sát, nghiên cứu dự án tái định cư để đảm bảo an toàn sống cho các hộ gia đình và cá nhân”. Bởi vừa qua có những dự án tái định cư, điều tra khảo sát không kỹ, bố trí gần sông, suối nên bị ngập lụt, bị lũ quét hoặc có những dự án nằm sát vách núi bị sạt lở đất đe dọa tới an toàn sống của các hộ gia đình, cá nhân. Do đó bổ sung vấn đề điều tra khảo sát vào Điều 106 là rất cần thiết để đảm bảo tính bắt buộc đối với việc lập và thực hiện dự án tái định cư. Ở khoản 2 Điều 106 có quy định: "khu tái định cư phải đảm bảo các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội". Theo chúng tôi, nên cắt bỏ hai cụm từ: “hạ tầng kỹ thuật”“hạ tầng xã hội” để tránh dài dòng khó hiểu, khó thực hiện và đi thẳng vào các điều kiện bảo đảm của khu tái định cư, đồng thời sửa chữa, cắt bỏ, bổ sung một số từ để điều luật ngắn gọn, rõ ràng, tường minh, tránh rườm rà rắc rối. Tại điểm c khoản 2 Điều 106 quy định khu tái định cư phải đảm bảo điều kiện: "Phù hợp với điều kiện phong tục tập quán của từng vùng, miền". Quy định này chưa chặt chẽ và rất khó thực hiện, bởi vì ở Việt Nam có rất nhiều vùng, miền, có rất nhiều dân tộc, mỗi vùng, miền, mỗi dân tộc lại có những phong tục tập quán riêng, thậm chí có những phong tục tập quán lạc hậu. Vì vậy, để xây dựng được một khu tái định cư đáp ứng được điều kiện này là không khả thi. Quy định này sẽ tạo ra những khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện công tác tái định cư. Vì vậy, theo chúng tôi cần phải xem lại quy định này hoặc sửa đổi khu tái định cư: "Phải phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền mà pháp luật thừa nhận" tức là chỉ có những phong tục tập quán được pháp luật thừa nhận thì khu tái định cư mới phải đảm bảo.

- Tại khoản 1 Điều 107 "Bố trí tái định cư cho người có đất thu hồi mà phải di chuyển chỗ ở", có quy định: “hộ gia đình cá nhân có đất ở người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam khi Nhà nước thu hồi đất đủ điều kiện được bồi thường về đất thì được bố trí tái định cư”. Theo chúng tôi, quy định này còn chung chung, không biết theo điều kiện nào. Vì vậy, để quy định này được rõ ràng chặt chẽ hơn thì sau cụm từ “đủ điều kiện được bồi thường về đất” nên bổ sung cụm từ “theo khoản 1 Điều 90 của luật này”. Có như vậy thì điều luật mới đầy đủ, người đọc mới dễ hiểu, dễ thực hiện.

- Tại khoản 3 Điều 107 có quy định: "Người có đất ở bị thu hồi thực hiện dự án chỉnh trang đô thị…, thu hồi đất để thực hiện mục đích khác thì được bố trí tái định cư tại chỗ…, ưu tiên vị trí thuận lợi cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp với kinh doanh dịch vụ”. Quy định như vậy sẽ dẫn tới bất bình đẳng giữa hộ gia đình cá nhân này với hộ gia đình cá nhân khác khi có đất bị thu hồi, mang lại lợi ích không chính đáng cho một số người. Vì vậy, theo chúng tôi nên sửa lại câu này: “ưu tiên vị trí thuận lợi cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp với kinh doanh dịch vụ phải thu hồi đất”. Tức là chỉ những hộ gia đình cá nhân nào đang sử dụng đất ở kết hợp với kinh doanh, dịch vụ bị thu hồi đất mới được ưu tiên vị trí thuận lợi để tái định cư.

- Tại khoản 1 Điều 108 về bồi thường hỗ trợ tái định cư đối với các trường hợp đặc biệt có quy định: “Đối với những dự án đầu tư mà phải di chuyển cả cộng đồng dân cư làm ảnh hưởng tới toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa của cộng đồng thì Thủ tướng Chính phủ quy định khung chính sách bồi thường hỗ trợ tái định cư”. Theo chúng tôi cần làm rõ nội hàm cộng đồng dân cư. Có nghĩa là phải quy định, có bao nhiêu hộ gia đình, có bao nhiêu số dân, và diện tích đất bao nhiêu thì mới được gọi là “cộng đồng dân cư” còn viết như dự thảo sẽ rất khó thực hiện trên thực tế, thậm chí là tranh cãi. Đặc biệt là gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thu hồi đất, bởi không biết căn cứ vào đâu để xác định cộng đồng dân cư, để từ đó chi trả tiền bồi thường theo trường hợp đặc biệt.

Tại khoản 2 Điều 109 về chi trả tiền bồi thường hỗ trợ tái định cư có quy định: “Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi, ngoài tiền bồi thường hỗ trợ theo phương án bồi thường… thì người có đất bị thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính theo số tiền chậm trả và thời gian chậm trả”. Theo chúng tôi để chặt chẽ hơn cần bổ sung vào quy định này thời gian chậm trả tối đa là bao nhiêu ngày để tránh tình trạng chủ đầu tư dây dưa, không chịu trả tiền bồi thường hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi.

Có thể nói, Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một vấn đề vô cùng quan trọng trong chế định thu hồi đất của dự thảo Luật Đất đai 2023 - một đạo luật rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, vì vậy, cần phải nhận được sự quan tâm nhiều hơn nữa từ các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân. Việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến chính sách này là vấn đề vô cùng cấp bách, thúc đẩy các dự án được thực hiện một cách nhanh chóng trên thực tế, giảm thiểu tình trạng khiếu nại, khiếu kiện từ người dân khi họ cảm thấy họ không được bồi thường thỏa đáng, góp phần thục đẩy phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh, trật tự ở những địa phương có đất thu hồi.

 

Nguyễn Quốc Tuấn- Phó Giám đốc Sở Tư pháp      

 

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của quốc gia, là một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay việc phải xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ sở hạ tầng,…đòi hỏi Nhà nước phải thu hồi nhiều diện tích đất ở, đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp... Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp về chỗ ở của các hộ gia đình cá nhân sử dụng đất ở bị thu hồi, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có nhiều quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cho thấy các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư còn có những bất cập, hạn chế vướng mắc nhất định. Do đó đặt ra yêu cầu phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2023.