Quyền sở hữu tài sản và các quy định bảo vệ quyền sở hữu tài sản

Một trong các quyền của tổ chức, cá nhận được pháp luật bảo hộ đó chính là quyền đối với tài sản, theo đó tại Bộ luật dân sự đã quy định cụ thể về các quyền này đối với tài sản. Đồng thời, để các tài sản đó được bảo vệ và chủ sở hữu được thực hiện các quyền của mình thì Nhà nước đã ban hành các chế tài để bảo vệ quyền đó. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của việc xâm phạm đối với các quyền của tài sản mà sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với quyền sở hữu tài sản, tại Bộ luật Dân sự 2015 ghi nhận bao gồm 03 quyền: Quyền chiếm hữu là “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”(Điều 186); Quyền sử dụng là “quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.” (Điều 189) và Quyền định đoạtlà quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.” (Điều 192).

          Như vậy, có thể hiểu khi công dân có quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản thì được thực hiện các quyền đối với tài sản, được nắm giữ, chi phối, hưởng hoa lợi, lợi tức và quyết định việc chuyển giao tài sản cho người khác dưới nhiều hình thức như chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế…Trong các loại tài sản thì đất đai được xem là một loại tài sản đặc biệt, Nhà nước chỉ ghi nhận quyền sử dụng mà không ghi nhận quyền chiếm hữu, quyền định đoạt bởi tại Điều 53 Hiến pháp 2013 quy định rõ đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý và tại Điều 4 Luật Đất đai 2013 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”. Do đó, đối với đất đai thì cá nhân, tổ chức chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền chiếm hữu và quyền định đoạt.

          Bên cạnh việc ghi nhận các quyền đối với tài sản thì Nhà nước có các biện pháp để bảo vệ quyền của công dân đối với các tài sản của mình. Theo pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tại Điều 15 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình đã đưa ra chế tài xử phạt đối với các hành vi gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân như: chiếm đoạt tài sản; Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Sử dụng, mua, bán, thế chấp, cầm cố trái phép hoặc chiếm giữ tài sản của người khác; Cưỡng đoạt tài sản… với mức phạt từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, ngoài ra còn bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, trục xuất nếu người vi phạm là người nước ngoài và bị áp dụng một trong các biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm; Buộc trả lại tài sản do chiếm giữ trái phép; Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đối với hành vi vi phạm.

          Khi xâm phạm ở mức độ vi phạm nghiêm trọng, các hành vi trên có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 với các tội danh như: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172; Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173; Tội chiếm giữ trái phép tài sản được quy định tại Điều 176; Tội sử dụng trái phép tài sản được quy định tại Điều 177 và một số tội danh khác khi xâm phạm đến quyền về tài sản của chủ sở hữu sẽ bị phạt tiền đến 100.000.000đ và phạt tù lên đến 20 năm tùy vào tính chất, mức độ và hành vi cụ thể. Trong quy định về các tội của Bộ luật Hình sự không có khái niệm như thế nào là chiếm giữ, công nhiên chiếm đoạt, cưỡng đoạt…nhưng có thể căn cứ vào các quyền của chủ sở hữu được quy định tại Bộ luật Dân sự để từ đó đưa ra nhận định tổ chức, cá nhân bị xâm phạm những quyền gì đối với tài sản để xác định đúng đối với hành vi vi phạm của tài sản đó.

          Với các chế tài được quy định rõ theo pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật về hình sự, tổ chức, cá nhân nếu bị xâm phạm về các quyền đối với tài sản thì có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra hoặc điều tra nhằm xem xét tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm để xác định hành vi vi phạm đồng thời đưa ra chế tài xử lý theo quy định của pháp luật.

Như vậy, có thể thấy, hệ thống pháp luật của Việt Nam đã quy định đầy đủ và cụ thể về quyền và các chế tài để bảo vệ quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản của mình, khi các quyền này bị xâm phạm thì sẽ bị xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật./.

Bùi Cẩm Thạch

 TIN TỨC LIÊN QUAN

Để đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình ngày 31/12/2021 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2021/NĐ-CP để xử lý các hành vi vi phạm, quá trình thi hành Nghị định đã góp phần hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, tạo ra công cụ pháp lý cho các cơ quan, người có thẩm quyền thi hành tốt công vụ. Tuy nhiên, một số quy định của nghị định thiếu cụ thể, rõ ràng, trùng lặp, mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác dẫn đến quá trình áp dụng người thi hành công vụ lúng túng gặp không ít khó khăn, cụ thể:
Mặc dù được quy định tại Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, tuy nhiên khái niệm về quyền hưởng dụng hiện nay vẫn đang còn tương đối mơ hồ với nhiều người dân. Điều này phần nào ảnh hưởng tới việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Tuy nhiên, không vì vậy mà cho rằng quyền hưởng dụng không quan trọng. Thực tế, khi xem xét cụ thể về quyền hưởng dụng, có thể thấy rằng đây là một quyền năng có ý nghĩa lớn về mặt xã hội và kinh tế trong việc khai thác, sử dụng tài sản. Quyền hưởng dụng là quy định mới được bổ sung tại BLDS năm 2015 mà trước đây BLDS năm 2005 không quy định, mang tính chất đột phá trong giao dịch dân sự ngày nay.
Luật Đất đai 2024, được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025. Luật có nhiều điểm mới, phù hợp với thực tiễn quản lý và sử dụng đất, trong đó có những tác động tích cực đến lĩnh vực nông nghiệp, tạo động lực thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển theo hướng ổn định, bền vững…
Thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 và Nghị định số 98/2022/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, ngày 29 tháng 12 năm 2023 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 11/2023/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng đối với ngành Tư pháp. Theo đó, Thông tư này quy định chi tiết thi hành khoản 4 Điều 24, khoản 3 Điều 26, khoản 3 Điều 27, khoản 3 Điều 28, khoản 6 Điều 74, khoản 2 Điều 75, khoản 6 Điều 84 của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 và áp dụng đối với tập thể, cá nhân được xác định cụ thể trong các phong trào thi đua; tập thể, cá nhân thực hiện nhiệm vụ liên quan đến các lĩnh vực công tác của ngành Tư pháp; tập thể, cá nhân có đóng góp vào sự phát triển của Bộ, ngành Tư pháp.
Ngày 25/04/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 343/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Kể từ ngày 01/01/2022, công tác này xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được thực hiện theo Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg ngày 22/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 09/2021/TT-BTP ngày 15/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Qua 02 năm thực hiện các văn bản này, công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã đạt một số kết quả đáng ghi nhận.